Bản án 26/2020/HNGĐ-ST ngày 30/06/2020 về tranh chấp hôn nhân gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG HƯNG, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 26/2020/HNGĐ-ST NGÀY 30/06/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH

Ngày 30 tháng 6 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đông Hưng, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 28/2020/TLST- HNGĐ ngày 24 tháng 02 năm 2020 về việc: “Tranh chấp về hôn nhân gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 27/2020/QĐXX - ST ngày 05 tháng 6 năm 2020 và quyết định hoãn phiên tòa số 13/2020/QĐ - HPT ngày 12/6/2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Phạm Thị L.A, sinh năm 1984 Địa chỉ: Khu 1, thị trấn SH, huyện SH , tỉnh LC

Bị đơn: Anh Hoàng Đình Q, sinh năm 1983 Địa chỉ: Thôn MC, xã ĐH, huyện ĐH, tỉnh TB. Nay là thôn MC, xã ĐQ, huyện ĐH, tỉnh TB Hiện là giáo viên trường tiểu học và Trung học cơ sở ĐV, huyện ĐH, tỉnh TB.

(Có mặt chị L.A, vắng mặt anh Q)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn xin ly hôn ngày 18/11/2019 và trong quá trình tố tụng chị Phạm Thị L.A trình bày:

Chị L.A và anh Q kết hôn do tự nguyện, khi chị L.A và anh Q chung sống chị L.A đã mang thai cháu Q.A được 08 tháng thì vợ chồng mới đi đăng ký kết hôn tại UBND xã LM, huyện SH, tỉnh LC vào ngày 26/02/2008.

Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại xã LM, anh Q là giáo viên trường Trung học cơ sở xã LM còn chị làm kế toán tại UBND xã LM. Vợ chồng chung sống bình thường được 04 năm. Đến tháng 10/2011 vợ chồng thống nhất bàn bạc xin chuyển về dưới xuôi công tác, anh Q chuyển về trước, chị L.A sẽ chuyển về sau.

ng năm 2011 anh Q được chuyển về trường THCS xã ĐV và công tác tại trường cho đến nay. Tuy nhiên sau khi anh Q chuyển được về xuôi thì chị L.A không thể chuyển công tác được. Chị L.A đã hai lần trao đổi với anh Q để anh Q quay trở lại công tác tại SH và sinh sống cùng vợ con nhưng anh Q không nhất trí. Từ năm 2011 chị L.A cùng hai con Y.C và H.T tiếp tục sinh sống tại SH, còn anh Q và con Q.A về sinh sống tại quê anh Q xã ĐH. Từ đó chỉ đến dịp tết nguyên đán và kì nghỉ hè vợ chồng con cái mới gặp nhau. Khi anh Q mới về quê công tác thì vợ chồng còn gọi điện thăm hỏi động viên nhau nhưng sau đó việc thăm hỏi động viên ngày càng giảm đi và tình cảm vợ chồng từ đó cứ lạnh nhạt dần. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, chị xin được ly hôn anh Q.

Về con chung: Chị L.A và anh Q có 03 con chung là Hoàng Q.A, sinh ngày 28/4/2008, Hoàng Lan Y.C sinh ngày 26/11/2010, Hoàng H.T, sinh ngày 12/6/2012. Từ khi anh Q chuyển về quê cháu Q.A đã do anh Q trực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc, cháu Y.C và H.T do chị L.A trực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc. Ly hôn chị L.A xin được tiếp tục nuôi hai con Y.C và H.T, đề nghị giao con Q.A cho anh Q nuôi dưỡng. Chị L.A không yêu cầu anh Q cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị.

Về tài sản chung: Chị L.A không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại biên bản ghi lời khai ngày 28/5/2020 anh Q trình bày: Anh Q và chị L.A kết hôn do tự nguyện có đăng ký kết hôn tại UBND xã làng M, huyện SH, tỉnh LC vào năm 2008. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại huyện SH đến năm 2011 thì anh Q chuyển về quê và công tác tại trường THCS xã ĐV. Từ khi anh Q chuyển về quê vợ chồng rất ít gặp nhau một năm chỉ gặp hai đến ba lần. Anh Q về quê công tác nhưng thu nhập của anh chỉ ở mức trung bình, anh cũng phải nuôi một con lớn là cháu Q.A, do vậy anh không có điều kiện hỗ trợ về kinh tế cho chị L.A. Mặt khác chị L.A công tác ở SH mức thu nhập cao hơn anh. Do không có điều kiện hỗ trợ cho vợ về kinh tế nên tình cảm vợ chồng cứ lạnh nhạt dần. Nay chị L.A xin ly hôn anh không mong muốn, anh đã cố gắng hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng không được, anh Q cũng xác định tình cảm vợ chồng không còn, chị L.A xin ly hôn anh chấp nhận ly hôn.

Về con chung: Vợ chồng có 03 con chung là Hoàng Q.A sinh ngày 28/4/2008, Hoàng Lan Y.C sinh ngày 26/11/2010, Hoàng H.T, sinh ngày 12/6/2012. Ly hôn anh đồng ý với ý kiến của chị L.A, anh trực tiếp nuôi cháu Q.A, chị L.A trực tiếp nuôi dưỡng cháu Y.C và H.T.

Hiện tại anh là giáo viên trường tiểu học và trung học cơ sở xã ĐV, anh đủ điều kiện nuôi cháu Q.A. Anh Q không có tài liệu chứng cứ nào nộp cho Tòa án, anh đã được Tòa án giải thích quy định của pháp luật xong do công việc bận mải anh Q xin được vắng mặt tại tất cả các buổi làm việc mà Tòa án triệu tập cũng như tại phiên tòa.

Về tài sản chung: Anh Q không không yêu cầu giải quyết.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện ĐH phát biểu quan điểm việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến khi nghị án cơ bản đúng quy định của pháp luật việc chấp hành pháp luật của chị L.A đã tuân thủ quy định của pháp luật, đối với anh Q chưa tuân thủ quy định của pháp luật.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị chấp nhận yêu cầu của chị L.A, xử cho chị L.A được ly hôn anh Q. Về con chung: Giao 02 con chung Hoàng Lan Y.C sinh ngày 26/11/2010, Hoàng H.T, sinh ngày 12/6/2012 cho chị L.A trực tiếp nuôi dạy. Giao con chung Hoàng Q.A sinh ngày 28/4/2008 cho anh Q nuôi dạy, chấp nhận tự nguyện của chị L.A không yêu cầu anh Q cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị. Về tài sản chung: Các đương sự không yêu cầu nên không phải giải quyết. Về án phí: Chị L.A phải chịu án phí dân sự theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định.

[ 1] Về thủ tục tố tụng: Chị L.A có đơn yêu cầu giải quyết việc ly hôn anh Q tại Tòa án nhân dân huyện ĐH. Theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện ĐH.

Anh Q vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ. Căn cứ vào Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự Hội đồng xét xử Tòa án nhân dân huyện ĐH vẫn tiến hành xét xử vắng mặt anh Q.

[ 2]Về quan hệ hôn nhân: Anh Q và chị L.A kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống bình thường được 03 năm anh Q chuyển về quê TB công tác và sinh sống. Do khoảng cách về địa lý và điều kiện kinh tế khó khăn vợ chồng ngày càng ít có thời gian gần gũi nhau từ đó tình cảm vợ chồng cứ lạnh nhạt dần. Nay chị L.A xin ly hôn anh Q cũng xác định tình cảm vợ chồng không còn, anh Q chấp nhận ly hôn.

Xét thấy mâu thuẫn đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, do vậy cần chấp nhận nguyện vọng của chị L.A, xử cho chị L.A được ly hôn anh Q là phù hợp với quy định của pháp luật.

[3] Về con chung: Anh Q và chị L.A có 03 con chung là Hoàng Q.A, sinh ngày 28/4/2008, Hoàng Lan Y.C, sinh ngày 26/11/2010, Hoàng H.T, sinh ngày 12/6/2012. Cháu Q.A hiện đang sinh sống cùng anh Q có nguyện vọng muốn ở với anh Q, hai cháu Y.C và H.T hiện đang sinh sống cùng chị L.A, có nguyện vọng muốn ở với chị L.A. Do vậy để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt cho các con chung và không làm xáo trộn cuộc sống của các con chung cần tiếp tục giao con Q.A cho anh Q nuôi dưỡng, giao 02 con chung Y.C và H.T cho chị L.A nuôi dưỡng, đồng thời chấp nhận tự nguyện của chị L.A không yêu cầu anh Q cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị.

[4] Về tài sản chung: Chị L.A và anh Q không yêu cầu nên không phải giải quyết.

[5] Về án phí: Chị L.A là nguyên đơn nên phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[6] Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn luật định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a, khoản 1 Điều 39, Điều 35, Điều 146, Điều 147, Điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Nghị quyết 326/2016/ UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án, lệ phí Tòa án; Khoản 1 Điều 51, Điều 56, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân gia đình Tuyên xử:

1/Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Phạm Thị L.A được ly hôn anh Hoàng Đình Q.

2/Về con chung: Giao con chung Hoàng Q.A, sinh ngày 28/4/2008, cho anh Q trực tiếp nuôi dạy, giao 02 con chung Hoàng Lan Y.C, sinh ngày 26/11/2010 và Hoàng H.T, sinh ngày 12/6/2012 cho chị L.A nuôi dạy. Chấp nhận tự nguyện của chị L.A không yêu cầu anh Q cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị.

Hai bên được quyền đi lại thăm nom chăm sóc giáo dục con chung không ai được cản trở. Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục con thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng nuôi con sau ly hôn được thực hiện theo các Điều 81, 82, 84 và 116 Luật Hôn nhân gia đình.

3/ Về tài sản chung: Không đặt ra giải quyết.

4/Về án phí: Chị L.A phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm. Chuyển số tiền chị L.A đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai số 0008299 ngày 24/02/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện ĐH thành tiền án phí.

5/Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày. Người có mặt tính từ ngày tuyên án. Người vắng mặt tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ../. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

180
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 26/2020/HNGĐ-ST ngày 30/06/2020 về tranh chấp hôn nhân gia đình

Số hiệu:26/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Hưng - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về