Bản án 26/2019/HNGĐ-ST ngày 31/10/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỊNH HOÁ, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 26/2019/HNGĐ-ST NGÀY 31/10/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 31 tháng 10 năm 2019, Tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Định Hoá, tỉnh Thái nguyên, xét xử sơ thẩm C khai vụ án thụ lý số: 95/2019/TLST-HNGĐ ngày 19 tháng 6 năm 2019 về việc ly hôn,tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 29/2019/QĐXX-ST ngày 30 tháng 9 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Trịnh Thị H, sinh năm: 1987.

Nơi ĐKHKTT: Xóm LB 2, xã SP, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên

Nơi ở hiện nay: Thôn DT 1, xã ĐL, huyện YĐ, tỉnh Thanh Hóa. (Có mặt tại phiên tòa).

2. Bị đơn: Anh Lã Văn C, sinh năm: 1986.

Đa chỉ: Xóm LB 2, xã SP, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên. (Vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện xin ly hôn và quá trình tố tụng giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Hồng trình bày:

Chị và anh C kết hôn với nhau vào ngày 21/8/2009, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã ĐL, huyện YĐ, tỉnh Thanh Hóa. Việc kết hôn của anh, chị là hoàn toàn tự nguyện, được gia đình hai bên đồng ý và tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán địa phương. Sau khi kết hôn, chị về nhà anh C làm dâu và chung sống cùng gia đình nhà chồng được khoảng 02 tháng thì vợ chồng cùng nhau đi làm công nhân trong thành phố Hồ Chí Minh chung sống được hai năm thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do trong ăn ở sinh hoạt và nuôi dạy con cái, anh C hay chơi bời, uống rượu, không chịu làm ăn, kinh tế gia đình do một mình chị gánh vác. Anh C sử dụng ma túy, chị và gia đình can ngăn, khuyên bảo, chị đã cho anh C nhiều cơ hội để sửa chữa nhưng anh C không thay đổi, đến năm 2014 mâu thuẫn vợ chồng đã quá trầm trọng, liên tục sảy ra cãi vã, xúc phạm và nhiều lần sẩy ra xô xát, chị đã cùng con về nhà bố mẹ đẻ ở được khoảng một tháng thì anh C đến xin lỗi và hứa sẽ thay đổi bản thân, xin chị cho một cơ hội nữa để anh sửa chữa sai lầm, chị đã đồng ý quay lại chung sống nhưng chỉ được khoảng hai tháng nhưng anh C không thể thay đổi được tính tình, nếp sống, ăn ở như trước đây. Từ tháng 8/2016 vợ chồng chính thức sống ly thân cho đến nay và không hỏi thăm gì đến nhau. Anh C không đến Tòa án để giải quyết vụ án là gây khó khăn cho chị còn thực tế cũng không còn tình cảm gì với chị. Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa ngày hôm nay chị H xác định tình cảm vợ chồng không còn, chị cương quyết xin ly hôn anh C.

- Về con chung: Vợ chồng có một con chung là cháu Lã Trịnh Ngọc A, sinh ngày 16/9/2009, hiện nay đang ở với anh C và học lớp 5 Trường tiểu học xã SP. Ly hôn chị xin được nuôi con và không yêu cầu anh C phải đóng góp cấp dưỡng nuôi con. Anh C xin nuôi con tùy Tòa án xem xét.

- Về tài sản chung, khoản có cho vay chung, khoản nợ chung: Chị H xác định không có, không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.

- Về công sức đóng góp cho gia đình nhà chồng: Chị H xác định không có, không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.

* Về phía bị đơn anh Lã Văn C:

Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa ngày hôm nay anh C vắng mặt, tuy nhiên bà Lê Thị T là mẹ đẻ của anh C xác định bà có tổ chức lễ cưới cho anh C, chị H vào tháng 8/2009, về những mâu thuẫn của vợ chồng, thời gian vợ chồng sống ly thân, về con chung như chị H trình bầy là đúng. Về mâu thuẫn vợ chồng bà không rõ cụ thể, tuy nhiên theo bà biết nguyên nhân cũng do trong ăn, ở sinh hoạt và nuôi dạy con cái, anh có C sử dụng ma túy chị H và gia đình đã khuyên can, góp ý nhưng anh C không thay đổi nên liên tục sảy ra cãi vã, xúc phạm nhau. Từ tháng 8/2016 chị H về nhà bố mẹ đẻ ở tại tỉnh Thanh Hóa, anh C ở với bà và đi làm ăn, vợ chồng không quan tâm, hỏi thăm gì đến nhau. Nay chị H xin ly hôn anh C, gia đình không có ý kiến gì, tùy Tòa án xem xét quyết định theo quy định của pháp luật.

- Về con chung: Vợ chồng C, H có một con chung là cháu Lã Trịnh Ngọc A, sinh ngày 16/9/2009, vợ chồng C, H ly hôn gia đình tùy Tòa án xem xét, quyết định theo quy định của pháp luật.

- Về tài sản chung, khoản có cho vay chung, khoản nợ chung bà T xác định: Vợ chồng C, H không có, tùy Tòa án xem xét, giải quyết theo định theo quy định của pháp luật.

- Về công sức đóng góp cho gia đình nhà chồng của chị H thì cũng không có, tùy Tòa án xem xét, giải quyết theo định theo quy định của pháp luật.

Trước khi chuyển sang phần nghị án, Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự của Thẩm phán và Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng trong vụ án.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ xác định: Kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước khi nghị án, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án; bị đơn anh Lã Văn C từ khi bị khởi kiện về việc ly hôn đã không thực hiện đúng quy định tại Điều 70, 72 Bộ luật tố tụng dân sự. Đã nhận được Thông báo về việc thụ lý vụ án, giấy triệu tập, Thông báo về tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp, cận công khai chứng cứ và hòa giải của Tòa án hợp lệ nhưng đều vắng không có lý do. Vì vậy Tòa án nhân dân huyện Đ xét xử vắng mặt bị đơn tại phiên tòa đảm bảo đúng quy định của pháp luật.

- Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị Hồng, cho chị Hồng được ly hôn anh C. Về con chung: Giao cháu Lã Trịnh Ngọc A, sinh ngày 16/9/2009 cho chị H trực tiếp, trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung đối với anh C. Về tài sản chung, khoản có cho vay chung, khoản nợ chung, công sức đóng góp cho gia đình nhà chồng: Không có, vì vậy không đặt ra xem xét, giải quyết. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành xác minh, thu thập tài liệu chứng cứ theo quy định của pháp luật, tiến hành hòa giải vợ chồng về đoàn tụ nhưng không thành. Vì vậy vụ án được đưa ra xét xử C khai ngày hôm nay.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

- Về tố tụng:

Đây là vụ án ly hôn, tranh chấp về nuôi con mà bị đơn cư trú tại thôn LB 2, xã SP, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên. Vì vậy vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Định Hoá, tỉnh Thái Nguyên theo quy định tại khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn anh Lã Văn C đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án; Giấy triệu tập; Thông báo về phiên họp tiếp cận C khai chứng cứ và hòa giải nhưng anh C không đến Tòa án làm việc. Tòa án đã tiến hành mở phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải và lập biên bản không tiến hành hòa giải được. Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do, căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là phù hợp, đúng quy định củ pháp luật.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ bằng biện pháp lấy lời khai của đương sự, xác minh. Tại phiên tòa sơ thẩm ngày hôm nay có sự tham gia của Viện kiểm sát nhân dân theo khoản 2 Điều 21 Bộ luật tố tụng dân sự là phù hợp, đúng quy định của pháp luật.

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Trịnh Thị H và anh Lã Văn C kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Đây là hôn nhân hợp pháp.

- Xét yêu cầu xin ly hôn của chị H nhận thấy: Sau khi kết hôn vợ chồng có thời gian ngắn hạnh phúc, trong ăn ở sinh hoạt hàng vợ chồng luôn xẩy ra mâu thuẫn, cãi vã, không có tiếng nói chung. Chị H cho rằng do anh C thường xuyên sử dụng ma túy, chơi bời, không chịu làm ăn, chị góp ý nhưng anh C không sửa đổi, chị đã cho anh C nhiều cơ hội để sửa chữa sai lầm nhưng không có thay đổi gì. Tại biên bản làm việc với bà T xác định vợ chồng anh C, chị H có nhiều mâu thuẫn trong ăn ở sinh hoạt hàng ngày và nuôi dạy con cái, trên thực tế vợ chồng đã sống xa nhau từ khi tháng 8/2016 cho đến nay, ngày tết, ngày lễ chị H không về. Giữa hai vợ chồng đã không tìm được tiếng nói chung. Trong quá trình giải quyết Tòa án đã tiến hành hòa giải đoàn tụ nhưng anh C không đến Tòa án để làm việc. Điều đó cho thấy mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, yêu cầu xin ly hôn của chị H là có căn cứ, đúng thực tế. Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa ngày hôm nay chị H không rút đơn xin ly hôn mà cương quyết xin được ly hôn anh C. Căn cứ Điều 51, 53, 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

- Về yêu cầu xin nuôi con chung của chị H xét thấy: Chị H và anh C có một con chung là Lã Trịnh Ngọc A, sinh ngày 16/9/2009. Xét thấy chị H có nơi ở, có việc làm, có thu nhập ổn định, anh C không đến Tòa án để làm việc. Việc giao cháu A cho chị H được chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục phù hợp với nguyện vọng của chị H, đảm bảo quyền, lợi ích về mọi mặt của cháu A. Vì vậy nguyên vọng xin được nuôi con của chị H là phù hợp với thực tế, cần được chấp nhận.

- Về việc cấp dưỡng nuôi con chung Tòa án đã giải thích đây là quyền và nghĩa vụ của cha mẹ nhưng chị H tự nguyện không yêu cầu anh C phải đóng góp cấp dưỡng nuôi con chung. Vì vậy không đặt ra xem xét, giải quyết.

- Về tài sản chung, khoản có cho vay chung, khoản nợ chung: Chị Trịnh Thị H xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Vì vậy không đặt ra xem xét, giải quyết.

- Về công sức đóng góp cho gia đình nhà chồng: Chị Trịnh Thị H xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Vì vậy không đặt ra xem xét, giải quyết.

- Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, Điều 39, Điều 70, Điều 72, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự. Điều 51, 53, 56, 58, 81, 82 và Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình. Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Trịnh Thị H được ly hôn anh Lã Văn C.

2. Về con chung: Giao cho chị Trịnh Thị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung là Lã Trịnh Ngọc A, sinh ngày 16/9/2009 cho đến khi con trưởng thành (đủ 18 tuổi), lao động tự túc được, anh C có quyền đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung đối với anh Lã Văn C do chị H tự nguyện không yêu cầu.

3. Về tài sản chung, khoản có cho vay chung, khoản nợ chung: Chị Trịnh Thị H xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Vì vậy không đặt ra xem xét giải quyết.

Về công sức đóng góp cho gia đình nhà chồng: Chị Trịnh Thị H xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Vì vậy không đặt ra xem xét giải quyết.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm:

Chị Trịnh Thị H phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0018681 ngày 19/6/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ.

Án xử C khai sơ thẩm, có mặt nguyên đơn, báo cho biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Vắng mặt bị đơn tại phiên tòa báo cho biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

237
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 26/2019/HNGĐ-ST ngày 31/10/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:26/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Định Hóa - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về