Bản án 26/2019/HNGĐ-ST ngày 30/07/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN LÃO, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 26/2019/HNGĐ-ST NGÀY 30/07/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 30 tháng 7 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện An Lão, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 87/2019/TLST-HNGĐ ngày 01 tháng 4 năm 2019 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 781/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 01 tháng 7 năm 2019; Quyết định hoãn phiên tòa số 907/2019/QĐST-HNGĐ ngày 22 tháng 7 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Phan Thị L, trú tại: Thôn V, xã LG, huyện ĐH, tỉnh TB, có mặt tại phiên tòa.

- Bị đơn: Anh Bùi Văn H, trú tại: Khu T, thị trấn TS, huyện AL, thành phố HP, vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 23 tháng 01 năm 2019 và các bản tự khai tại Tòa án của nguyên đơn là chị Phan Thị L trình bày:

Chị và anh Bùi Văn H xây dựng hạnh phúc với nhau do tự nguyện và có đăng ký kết hôn ngày 02 tháng 5 năm 2005 tại Ủy ban nhân dân thị trấn TS, huyện AL, thành phố HP. Sau khi kết hôn anh chị chung sống tại gia đình anh H ở Khu T, thị trấn TS, huyện AL, thành phố HP. Thời gian đầu chung sống tình cảm vợ chồng hòa thuận, sau đó cuộc sống vợ chồng dần phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do bất đồng quan điểm, tính cách không phù hợp nhau, vợ chồng thường xuyên cãi nhau, không có sự tin tưởng nhau về tình cảm. Vợ chồng mâu thuẫn chị L đưa con về nhà bố mẹ đẻ ở thôn Thôn V, xã LG, huyện ĐH, tỉnh TB và sống ly thân với anh H từ tháng 12 năm 2006 đến nay. Anh H không quan tâm thăm hỏi mẹ con chị từ khi vợ chồng sống ly thân. Chị L không còn tình cảm với anh H, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Bùi Văn H.

Về con chung: Chị L trình bày chị và anh H có một con chung là Bùi Thị Q, sinh ngày 11 tháng 7 năm 2006. Chị L nuôi con từ nhỏ, ly hôn chị đề nghị được nuôi con Bùi Thị Q và không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, công nợ: Chị L trình bày chị và anh H không có, chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Phía bị đơn anh Bùi Văn H đã được tòa án triệu nhiều lần tập hợp lệ nhưng anh H không đến nên không có lời khai của anh H.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện An Lão, thành phố Hải Phòng tại phiên tòa phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã đảm bảo đúng quy định của pháp luật. Nguyên đơn chị Phan Thị L đã thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật. Bị đơn anh Bùi Văn H không đến tham gia tố tụng tại tòa án là không tuân thủ các điều 70, 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về đường lối giải quyết vụ án: Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào các điều 19, 53, 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình, xử cho chị Phan Thị L được ly hôn anh Bùi Văn H; về con chung: Đề nghị Hội đồng xét xử giao con Bùi Thị Q, sinh ngày 11 tháng 7 năm 2006 cho chị L nuôi dưỡng, tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con đối với anh H; về tài sản chung, công nợ: Chị L không yêu cầu giải quyết đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét; về án phí: Căn cứ vào khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án, chị Phan Thị L phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

Về tố tụng:

[1] Vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện An Lão, thành phố Hải Phòng theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Bị đơn anh Bùi Văn H vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh Bùi Văn H.

Về nội dung vụ án:

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Phan Thị L và anh Bùi Văn H kết hôn trên cở sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 02 tháng 5 năm 2005 tại Ủy ban nhân dân thị trấn TS, huyện AL, thành phố HP được xác định là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống anh chị xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do tính cách, lối sống vợ chồng không hợp nhau, vợ chồng không tin tưởng nhau về mặt tình cảm dẫn đến vợ chồng xảy ra cãi nhau, cuộc sống vợ chồng không có hạnh phúc. Chị L đưa con về nhà bố mẹ đẻ ở tỉnh TB ở từ năm 2006 và sống ly thân với anh H từ đó đến nay, hai bên không ai quan tâm đến ai. Xét thấy tình trạng mâu thuẫn vợ chồng giữa chị L và anh H đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được.Chị L xin ly hôn anh H là có căn cứ phù hợp với quy định tại Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về con chung: Chị L và anh H có một con chung là Bùi Thị Q, sinh ngày 11 tháng 7 năm 2006. Ly hôn chị L đề nghị được nuôi con Bùi Thị Q và không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con. Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay anh H vắng mặt nên không có ý kiến về vấn đề con chung. Xét chị L một mình nuôi con và ở ổn định cùng bố mẹ chị từ năm 2006 hiện chị có công việc, có thu nhập ổn định; cháu Bùi Thị Q có đơn đề nghị được ở với chị L. Căn cứ Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử giao cho chị Phan Thị L nuôi dưỡng con Bùi Thị Q, chị L không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con nên tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con đối với anh Bùi Văn H.

[5] Về tài sản chung, công nợ: Chị L không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Chị Phan Thị L phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 235; khoản 4 Điều 147 và Điều 266 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ các điều 19, 51 53, 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Tuyên xử:

1. Chị Phan Thị L được ly hôn anh Bùi Văn H.

2. Về con chung: Giao con Bùi Thị Q, sinh ngày 11 tháng 7 năm 2006 cho chị Phan Thị L nuôi dưỡng đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con đối với anh Bùi Văn H.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Phan Thị L phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị L đã nộp là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0017151 ngày 01 tháng 4 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện AL, thành phố HP. Chị Phan Thị L đã nộp đủ án phí.

4. Về quyền kháng cáo bản án: Chị Phan Thị L có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; anh Bùi Văn H có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

188
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 26/2019/HNGĐ-ST ngày 30/07/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:26/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Lão - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về