Bản án 26/2019/HNGĐ-ST ngày 24/09/2019 về ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN K, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 26/2019/HNGĐ-ST NGÀY 24/09/2019 VỀ LY HÔN

Ngày 24 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân quận K, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 104/2019/TLST-HNGĐ ngày 22 tháng 5 năm 2019 về “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 586/2019/QĐXX-ST ngày 15 tháng 8 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 659/2019/QĐST-HNGĐ ngày 04 tháng 9 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Bùi Thị G; nơi ĐKHKTT: Tổ 14, phường B, quận K, thành phố Hải Phòng; nơi ở: Tổ 12, phường L, quận K, thành phố Hải Phòng; có mặt.

- Bị đơn: Ông Nguyễn Công H; nơi ĐKHKTT: Tổ 14, phường B, quận K, thành phố Hải Phòng; nơi ở: Tổ 12, phường L, quận K, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong Đơn khởi kiện (Về việc xin ly hôn) và Bản tự khai ngày 24-5-2019, nguyên đơn là bà Bùi Thị G (bà G) trình bày: Về quan hệ hôn nhân, bà xây dựng hạnh phúc với ông Nguyễn Công H (ông H) trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã TS, huyện TT, tỉnh Thái Bình vào ngày 02-6- 1994 (Số 04; Quyển số 05). Vợ chồng chung sống được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do quan điểm sống của hai người không hợp nhau, thiếu tôn trọng nhau, thường xuyên xảy ra va chạm làm ảnh hưởng lớn đến cuộc sống, sinh hoạt. Mọi người đã khuyên bảo nhiều nhưng không có kết quả. Mâu thuẫn ngày càng căng thẳng, vợ chồng đã sống ly thân nhiều năm nay, không ai quan tâm đến cuộc sống chung. Nay bà G xác định tình cảm vợ chồng không còn khả năng đoàn tụ nên đề nghị được ly hôn ông H. Về con chung, ông bà có 02 con là Nguyễn Thị H sinh ngày 03-9-1995 và Nguyễn Thị T sinh ngày 10-6-1997. Các con đều đã đủ 18 tuổi và không thuộc trường hợp phải nuôi dưỡng. Về con chung, tài sản chung và công nợ, bà G không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, ông H vắng mặt nên Tòa án đã tống đạt những tài liệu sau đối với ông Nguyễn Công H: Thông báo về việc thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, biên bản đã tiếp cận công khai chứng cứ, thông báo về việc đã tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa nhưng ông H vẫn vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do.

Tại Biên bản xác minh ngày 12-6-2019 và Biên bản xác minh ngày 18-6- 2019, Biên bản lấy lời khai của người làm chứng ngày 24-6-2019, địa phương nơi bà G và ông H cư trú cung cấp về tình trạng hôn nhân của ông bà đã căng thẳng, kéo dài nhiều năm; hai con chung của ông bà đã đủ 18 tuổi và không thuộc trường hợp phải nuôi dưỡng. Ông H có mặt tại gia đình, biết được bà G có đơn xin ly hôn nhưng không có mặt theo giấy triệu tập của Tòa.

Tại phiên toà, bà G vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện: Về quan hệ hôn nhân bà xin được ly hôn với ông H; về con chung, tài sản chung và công nợ bà G không đề nghị Tòa án giải quyết. Ông H vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án và vắng mặt lần thứ hai tại phiên tòa, do vậy không có lời khai.

Quan điểm của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận K tham gia phiên tòa về việc tuân theo pháp luật tố tụng và ý kiến về việc giải quyết vụ án như sau:

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ kết quả tranh tụng, tranh luận tại phiên toà, Tòa án nhân dân quận K, thành phố Hải Phòng nhận định:

- Về tố tụng:

[1] Về quan hệ pháp luật có tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Bà Bùi Thị G có Đơn khởi kiện (Về việc xin ly hôn) với ông Nguyễn Công H đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự. Ông H là bị đơn trong vụ án và cư trú tại Tổ 12, phường L, quận K, thành phố Hải Phòng nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận K theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về thời hạn giải quyết vụ án: Tòa án nhân dân quận K thụ lý vụ án vào ngày 22-5-2019 và có Quyết định đưa vụ án ra xét xử vào ngày 15-8-2019 là đúng thời hạn chuẩn bị xét xử vụ án theo quy định tại Điều 203 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Thủ tục giải quyết vụ án: Quá trình giải quyết vụ án ông H vắng mặt tại gia đình nên Tòa án đã tống đạt hợp lệ những tài liệu sau theo quy định tại Điều 177 của Bộ luật Tố tụng dân sự: Thông báo về việc thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, biên bản đã tiếp cận công khai chứng cứ, thông báo về việc đã tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa nhưng ông H vẫn vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do. Vì vậy Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt ông H theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về nội dung:

[4] Về quan hệ hôn nhân: Trong bản tự khai, biên bản xác minh và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án đều thể hiện bà G xây dựng hạnh phúc với ông H trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã TS, huyện TT, tỉnh Thái Bình vào ngày 02-6-1994. Vì vậy quan hệ hôn nhân của ông bà là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại khoản 1 Điều 8 và khoản 1 Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình. Sau khi chung sống được một thời gian giữa ông bà phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do quan điểm sống của hai người không hợp nhau, thiếu tôn trọng nhau, xảy ra va chạm làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống, sinh hoạt. Trong thời gian sống ly thân ông bà không tìm được giải pháp để khắc phục mâu thuẫn. Bà G xác định tình cảm vợ chồng không còn khả năng đoàn tụ nên đề nghị được ly hôn với ông H. Trong suốt quá trình Tòa án giải quyết vụ án, mặc dù biết việc bà G xin ly hôn nhưng ông H đều không có mặt. Điều đó phần nào thể hiện ý chí không mong muốn đoàn tụ vợ chồng của ông H. Như vậy có thể thấy rằng bà G và ông H không còn yêu thương, quý trọng nhau, không tìm được tiếng nói chung trong cuộc sống, mức độ mâu thuẫn ngày càng căng thẳng, trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó cần áp dụng khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình để giải quyết cho bà G được ly hôn ông H.

[5] Về con chung: Hai con chung của ông bà là Nguyễn Thị H sinh ngày 03-9-1995 và Nguyễn Thị T sinh ngày 10-6-1997. Các con đều đã đủ 18 tuổi và không thuộc trường hợp phải nuôi dưỡng nên Tòa án giải quyết.

[6] Về tài sản chung và công nợ: Bà G và ông H đều không đề nghị giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về án phí: Bà Bùi Thị G là nguyên đơn phải nộp toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[8] Về quyền kháng cáo: Bà Bùi Thị G và ông Nguyễn Công H được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Như vậy ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát tại phiên tòa về việc giải quyết vụ án là có cơ sở, hoàn toàn phù hợp với các quy định của pháp luật nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Khoản 1 Điều 8, khoản 1 Điều 9, khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; Điều 244; khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa bà Bùi Thị G và ông Nguyễn Công H.

2. Về con chung: Các con đã đủ 18 tuổi và không thuộc trường hợp phải nuôi dưỡng nên không giải quyết.

3. Về tài sản chung và công nợ: Bà Bùi Thị G và ông Nguyễn Công H đều không đề nghị giải quyết nên Tòa án không xem xét.

4. Về án phí: Bà Bùi Thị G phải nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm và được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0007711 ngày 22 tháng 5 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự quận K, thành phố Hải Phòng. Bà Bùi Thị G đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bà Bùi Thị G được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Ông Nguyễn Công H được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

250
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 26/2019/HNGĐ-ST ngày 24/09/2019 về ly hôn

Số hiệu:26/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kiến Thuỵ - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về