Bản án 26/2019/HNGĐ-ST ngày 21/05/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 26/2019/HNGĐ-ST NGÀY 21/05/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 21 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 100/2019/TLST-HNGĐ ngày 18 tháng 02 năm 2019 về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 21/2019/QĐXX-ST ngày 16 tháng 4 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 17/2019/QĐST-HNGĐ ngày 03 tháng 5 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1978; nơi thường trú: ấp N, thị trấn C, huyện C1, tỉnh Cà Mau; nơi tạm trú: nhà trọ M, số 158/1, khu phố B, phường A, thị xã G, tỉnh Bình Dương, có mặt.

- Bị đơn: Ông Ngô Hoàng M, sinh năm 1977; nơi thường trú: khóm 4, thị trấn R, huyện N1, tỉnh Cà Mau; nơi tạm trú: nhà trọ M1, số 158/1, khu phố B, phường A, thị xã G, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 24 tháng 12 năm 2018 và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Nguyễn Thị H trình bày:

Bà Nguyễn Thị H và ông Ngô Hoàng M tự nguyện tìm hiểu và sống chung từ đầu năm 2008 nhưng không đăng ký kết hôn theo quy định Luật Hôn nhân và Gia đình.

Bà H và ông M cùng sống chung tại nhà trọ số 158/1, khu phố TB, phường A, thị xã G, tỉnh Bình Dương. Thời gian đầu chung sống, bà H và ông M sống rất hạnh phúc tuy nhiên sau đó vợ chồng phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do ông M thường xuyên uống rượu và la mắng vợ con, ngoài ra ông M không chia sẻ công việc nhà và phụ giúp về tài chính để chăm lo cho gia đình và nuôi dạy con, một mình bà H phải tự chăm lo, bà H nhiều lần khuyên ông M cần chăm lo cho gia đình và nuôi dạy con nhưng ông M không nghe ngược lại ông M thường to tiếng với vợ con, vợ chồng bất đồng quan điểm, tính tình vợ chồng không hợp nhau, từ đó ảnh hưởng đến cuộc sống hôn nhân. Bà H và ông M ly thân từ năm 2018 cho đến nay. Nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà H khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết được ly hôn với ông M.

Về con chung: Trong quá trình chung sống bà H và ông M có 01 người con chung là Nguyễn Thị Trà M2, sinh ngày 09 tháng 11 năm 2009. Khi ly hôn bà H yêu cầu được nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu ông M cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: Bà H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tòa án không tống đạt được các văn bản tố tụng cho bị đơn do bị đơn thường xuyên vắng nhà. Theo kết quả xác minh tại Công an phường A, thị xã G, tỉnh Bình Dương: Ông M có đăng ký tạm trú tại nhà trọ số 158/1, khu phố B, phường A, thị xã G, tỉnh Bình Dương. Tòa án đã tiến hành tống đạt các văn bản tố tụng cho ông M theo hình thức niêm yết công khai tại nơi tạm trú của ông M, Ủy ban nhân dân phường A, thị xã G, tỉnh Bình Dương và trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương nhưng ông M không gửi văn bản trình bày ý kiến về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con của bà H và cũng không đến Tòa án để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, xét xử. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt bị đơn.

Tại phiên tòa, bà H vẫn giữ nguyên yêu cầu ly hôn với ông M, về tài sản chung và nợ chung không yêu cầu Tòa án giải quyết, về con chung bà H yêu cầu được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung tên Nguyễn Thị Trà M2 và không yêu cầu ông M cấp dưỡng nuôi con.

Phát biểu của Kiểm sát viên:

Phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Từ khi thụ lý vụ án đến khi khai mạc phiên tòa sơ thẩm, Thẩm phán, Thư ký đã tiến hành đúng, đầy đủ các thủ tục tố tụng theo quy định. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật; bị đơn chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật.

Phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án: đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Về quan hệ hôn nhân: không công nhận quan hệ vợ chồng giữa bà H và ông M; về con chung: giao con chung tên Nguyễn Thị Trà M2, sinh ngày 09 tháng 11 năm 2009 cho bà H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Ghi nhận sự tự nguyện của bà H về việc không yêu cầu ông M cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung và nợ chung: các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên toà và căn cứ kết quả tranh tụng. Tòa án nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương nhận định:

[2] Về tố tụng:

Bà H khởi kiện yêu cầu ly hôn, tranh chấp về nuôi con với ông M; ông M có nơi tạm trú tại phường A, thị xã G, tỉnh Bình Dương nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Đi với bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, xét xử nhưng vẫn vắng mặt, cố tình không đến Tòa án làm việc là chưa thực hiện đúng quy định về quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định pháp luật. Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở để xét xử vắng mặt ông M theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Về nội dung:

Về quan hệ hôn nhân: Bà H và ông M chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 2008 nhưng không đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Bà H xác định tình cảm vợ chồng không còn, không thể quay về sống đoàn tụ hạnh phúc, ngoài ra bà H và ông M sống ly thân từ năm 2018 cho đến nay, vợ chồng không còn thương yêu, quý trọng, quan tâm lẫn nhau. Toà án đã động viên bà H tiến hành đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật nhưng bà H xác định không thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn và yêu cầu Toà án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Xét thấy, theo quy định tại khoản 1 Điều 14 Luật Hôn nhân và Gia đình thì nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định mà chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Do đó, theo quy định tại Điều 53 của Luật Hôn nhân và Gia đình, Hội đồng xét xử tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng giữa bà H và ông M.

[4] Về con chung: Bà H và ông M có một người con chung Nguyễn Thị Trà M2, sinh ngày 09 tháng 11 năm 2009. Tại phiên toà bà H vẫn giữ yêu cầu được nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu ông M cấp dưỡng nuôi con. Hội đồng xét xử nhận thấy cháu M2 hiện đang sống chung với bà H, cần được sự quan tâm, chăm sóc và giáo dục từ mẹ, mặt khác bà H có công việc ổn định. Ngoài ra, để đảm bảo sự phát triển cũng như quyền lợi về mọi mặt của con nên cần giao cháu M2 cho bà H tiếp tục nuôi dưỡng.

Về cấp dưỡng nuôi con: Ghi nhận sự tự nguyện của bà Nguyễn Thị H về việc không yêu cầu ông Ngô Hoàng M cấp dưỡng nuôi con.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không có yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[6] Ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên về nội dung vụ án là có cơ sở nên chấp nhận.

[7] Về án phí sơ thẩm: Nguyên đơn phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; khoản 1 Điều 227; khoản 3 Điều 228; Điều 266; Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 14; khoản 2 Điều 53; các Điều 58, 81, 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình;

Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị H đối với bị đơn ông Ngô Hoàng M về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con.

- Về quan hệ hôn nhân: Không công nhận quan hệ vợ chồng giữa bà Nguyễn Thị H và ông Ngô Hoàng M.

- Về con chung: Giao con chung Nguyễn Thị Trà M2, sinh ngày 09 tháng 11 năm 2009 cho bà Nguyễn Thị H được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục.

- Về cấp dưỡng: Ghi nhận sự tự nguyện của bà Nguyễn Thị H về việc không yêu cầu ông Ngô Hoàng M cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Vì lợi ích của con, khi có yêu cầu, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

- Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

2. Về án phí sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình, được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng đã nộp theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2016/0024809 ngày 28 tháng 01 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương.

3. Đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

174
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 26/2019/HNGĐ-ST ngày 21/05/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:26/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về