Bản án 26/2019/HNGĐ-ST ngày 13/03/2019 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỦY NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 26/2019/HNGĐ-ST NGÀY 13/03/2019 VỀ LY HÔN

Ngày 13 tháng 3 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 833/2018/TLST-HNGĐ ngày 10 tháng 12 năm 2018 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 21/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 26 tháng 02 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị K, sinh năm 1973; ĐKHKTT: Tổ dân phố T, thị trấn M, huyện T, thành phố H; nơi ở hiện nay: Tổ dân phố Q, thị trấn M, huyện T, thành phố H; vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Phạm Văn B, sinh năm 1972; ĐKHKTT: Tổ dân phố T, thị trấn M, huyện T, thành phố H; hiện đang chấp hành án phạt tù tại đội 4, phân trại số 2, trại giam X; vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 21/9/2018 và các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn là chị Nguyễn Thị K trình bày:

1. Về hôn nhân:

Chị K và anh Phạm Văn B kết hôn với nhau vào năm 1992 trên cơ sở tìm hiểu tự nguyện và có đăng ký kết hôn ngày 18/12/1992 tại Ủy ban nhân dân thị trấn M, huyện T, thành phố H. Sau cưới, vợ chồng đăng ký hộ khẩu thường trú và sinh sống tại Tổ dân phố T, thị trấn M. Quá trình chung sống có 02 con chung, đến tháng 12 năm 2005 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống nên thường xuyên xảy ra va chạm. Chị bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở, vợ chồng sống ly thân từ đó. Tháng 5 năm 2018, anh B vi phạm pháp luật bị bắt giam và bị kết án 20 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, hiện đang chấp hành án tại trại giam X. Nay chị xác định không còn tình cảm, hôn nhân không có hạnh phúc nên chị đề nghị Tòa án giải quyết được ly hôn anh B.

Tại văn bản ghi ý kiến ngày 16/01/2019, bị đơn là anh Phạm Văn B trình bày: Công nhận lời trình bày của chị K về điều kiện, thời gian và nơi đăng ký kết hôn như trên là đúng. Quá trình chung sống đến năm 2012 thì có phát sinh mâu thuẫn và sống ly thân từ năm 2013. Tháng 6 năm 2018, anh vi phạm pháp luật bị bắt giam và bị Tòa án nhân dân huyện C, thành phố H xử phạt 20 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, hiện anh đang chấp hành án tại đội 4, phân trại số 2, trại giam X. Nay chị K xin ly hôn, anh cũng xác định không còn tình cảm nên anh đồng ý ly hôn với chị K.

2. Về con chung:

Chị K trình bày chị và anh B có hai con chung tên là Phạm Thanh T sinh ngày 10/7/1993 và Phạm Thị Ngọc H sinh ngày 20/12/1996. Hai con hiện đã trưởng thành, khỏe mạnh và có khả năng lao động nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Anh B công nhận anh và chị K có hai con chung như chị K trình bày và lời trình bày về con chung của chị K như trên là đúng. Khi ly hôn, anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

3. Về tài sản chung:

Chị K và anh B thống nhất trình bày vợ chồng không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án thì Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân theo đúng pháp luật tố tụng, đương sự chấp hành pháp luật. Về việc giải quyết vụ án đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 51, Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn: Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị K được ly hôn anh Phạm Văn B; về con chung: Chị Nguyễn Thị K và anh Phạm Văn B có hai con tên là Phạm Thanh T sinh ngày 10/7/1993 và Phạm Thị Ngọc H sinh ngày 20/12/1996, hai con hiện đã thành niên và có khả năng lao động nên không xem xét giải quyết; về tài sản chung không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét giải quyết; nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Đây là vụ án tranh chấp về hôn nhân và gia đình và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện T, thành phố H theo quy định tại khoản 1 Điều 28, Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn là chị Nguyễn Thị K và bị đơn là anh Phạm Văn B vắng mặt tại phiên tòa có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Căn cứ khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

[2]. Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị K và anh Phạm Văn B đã được xác lập là hợp pháp (Giấy chứng nhận kết hôn số 38 đăng ký ngày 18/12/1992 tại Ủy ban nhân dân thị trấn M, huyện T, thành phố H). Căn cứ vào lời khai của đương sự và tài liệu điều tra xác minh thể hiện quá trình chung sống vợ chồng có phát sinh mâu thuẫn. Tháng 6 năm 2018, anh B vi phạm pháp luật và đã bị kết án phạt tù, hiện đang chấp hành án tại trại giam. Anh B đã vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Chị K yêu cầu ly hôn, căn cứ vào Điều 51 và Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình xử cho chị K được ly hôn anh B.

[3]. Về con chung: Chị K và anh B có hai con chung tên là Phạm Thanh T sinh ngày 10/7/1993 và Phạm Thị Ngọc H sinh ngày 20/12/1996. Hai con hiện đã thành niên và có khả năng lao động nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4]. Về tài sản chung: Chị K và anh B thống nhất trình bày vợ chồng không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không giải quyết trong vụ án này.

[5]. Về án phí: Chị K phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

Xử:

1. Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị K được ly hôn anh Phạm Văn B.

2. Về án phí: Chị Nguyễn Thị K phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn, được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000129 ngày 10/12/2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện T, thành phố H. Chị Nguyễn Thị K đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

3. Nguyên đơn và bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

256
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 26/2019/HNGĐ-ST ngày 13/03/2019 về ly hôn

Số hiệu:26/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về