TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
BẢN ÁN 26/2018/HS-PT NGÀY 29/03/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 29 tháng 3 năm 2018 tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 09/2018/TLPT-HS ngày 31 tháng 01 năm 2018 đối với bị cáo Trần Văn C do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 238/2017/HS-ST ngày 29 tháng 12 năm 2017 của Toà án nhân dân thành phố Cà M.
- Bị cáo có kháng cáo:
Họ và tên: Trần Văn C, sinh năm: 1985. (có mặt).
Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú: Ấp Sở T, xã Thạnh P, huyện Cái N, tỉnh Cà Mau; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt N; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ học vấn: 5/12; Con ông Trần Văn T3 và bà Võ Thị L; Vợ: Trần Thanh D; Con: 01 người; Tiền án: Không; Tiền sự: Không. Cấm đi khỏi nơi cư trú ngày: 28/6/2017 đến nay.
Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Nguyễn Văn T – Văn phòng luật sư Ngô Đình C2 thuộc đoàn luật sư tỉnh Cà Mau.
- Bị hại: Công ty trách nhiệm hữu hạn Xây lắp điện – Thương mại T M K. Địa chỉ: Số 440, Lý Thường Kiệt, khóm 2, phường 6, thành phố Cà M, tỉnh Cà Mau.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Văn T2 – Giám đốc.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Duy K – Nhân viên quản lý tổng hợp (có mặt). Nơi cư trú: Số 04, Phan Đình P, phường 2, thành phố Cà M, tỉnh Cà Mau.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Bị cáo Trần Văn C làm công nhân của Công ty trách nhiệm hữu hạn Xây lắp điện – Thương mại T M K (gọi tắt là Công ty) nên bị cáo biết rõ Công ty có bãi tập kết trụ điện tại khu vực Khóm 7, Phường 7, thành phố Cà M, không người trôngcoi. Từ đó, bị cáo nảy sinh ý định chiếm đoạt các trụ điện này để bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. Khoảng 17 giờ ngày 02/5/2017, C điều khiển xe mô tô từ nhà đến bãi tập kết các trụ điện và phát hiện có 25 trụ điện tại bãi tập kết. Lúc này, C gọi điện cho ông Tô Lam T2 hỏi thuê một xe cẩu chở các trụ điện cho C với giá 5.000.000 đồng thì ông T2 đồng ý. Sau đó, ông T2 gọi điện cho Trần Hoàng N là tài xế lái xe cẩu cho ông T2 cùng D và T4 làm công cho ông T2 điều khiển xe cẩu biển kiểm soát 69C-025.20 đến bãi tập kết trụ điện mà C yêu cầu. Khi đến nơi, xe cẩu đã cẩu được 20 trụ điện lên xe thì C yêu cầu N chạy theo C đến khu vực đất trống thuộc ấp Thạnh Đ, xã Lý Văn L, thành phố Cà M để cất giấu chờ tiêu thụ. Đến ngày 03/5/2017, C tìm người tiêu thụ các trụ điện trên thì bị Công an phát hiện mời về trụ sở làm việc.
Tại kết luận định giá số: 79/KL-HĐĐG ngày 02/6/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Cà M xác định: 20 trụ điện, quy cách trụđiện: Trụ BTLT 8,5m-F300 Kgf (k = 1,2), chiều dài 8,5m là 1.373.000 đồng x 20trụ = 27.460.000 đồng. Tổng cộng: 27.460.000 đồng.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 238/2017/HS-ST ngày 29 tháng 12 năm 2017 của Toà án nhân dân thành phố Cà M quyết định:
Tuyên bố bị cáo Trần Văn C phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm h, p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Trần Văn C 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo vào trại chấp hành án.
Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo theo pháp luật quy định.
Ngày 11 tháng 01 năm 2018, bị cáo Trần Văn C có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo.
Tại phiên tòa:
- Luật sư bào chữa cho bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ mới: Cha bị cáo có công với cách mạng, phía bị hại bãi nại cho bị cáo, bị cáo có địa chỉ rõ ràng để cho bị cáo được hưởng án treo.
- Bị cáo vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo và hoàn toàn thừa nhận hành viphạm tội như án sơ thẩm đã xét xử.
- Phía bị hại không yêu cầu xử lý đối với bị cáo vì bị cáo đã biết hối cải.
Đại diện viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tham gia phiên toà đề nghị Hội đồng xét xử sửa án sơ thẩm về áp dụng pháp luật tình tiết giảm nhẹ, giữ nguyên mức hình phạt như bản án sơ thẩm đã tuyên đối với bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã đượctranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Bị cáo Trần Văn C là công nhân của Công ty trách nhiệm hữu hạn Xây lắp điện – Thương mại T M K. Lợi dụng việc bãi tập kết trụ điện của Công ty không người trông coi, bị cáo đã lén lút thuê xe chở 20 trụ điện đi cất giấu để tìm nơi tiêu thụ. Tài sản bị cáo chiếm đoạt được định giá 27.460.000 đồng.
Do đó, án sơ thẩm xét xử bị cáo Trần Văn C phạm tội “Trộm cắp tài sản”theo quy định tại khoản 1 Điều 138 của Bộ luật hình sự là có căn cứ.
[2]. Xét kháng cáo của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng: Bản thân bị cáo là người làm công cho Công ty. Lẽ ra bị cáo phải góp sức bảo vệ tài sản cùng Công ty nhưng vì vụ lợi cá nhân đã lén lút lấy trộm tài sản là 20 trụ điện trị giá 27.460.000 đồng. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của Công ty một cách trái pháp luật. Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay bị cáo có cung cấp được các tình tiết giảm nhẹ mới là cha của bị cáo có công với cách mạng, phía bị hại là Công ty không có yêu cầu xử lý đối với bị cáo được quy định tại khoản 2 Điều 46 của Bộ luật Hình sự năm 1999. Tuy nhiên, số tiền chiếm đoạt của bị cáo lớn nên việc cách ly bị cáo với đời sống xã hội để có thời hạn cải tạo bị cáo thành người công dân có ích cho xã hội là cần thiết. Án sơ thẩm xử phạt bị cáo với mức án 06 tháng tù là tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo. Do đó, kháng cáo của bị cáo của bị cáo không được chấp nhận.
[3]. Do kháng cáo của bị cáo không chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[4]. Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 1 Điêu 355, Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự;
1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Văn C về hình phạt. Sửa bản án hình sự sơ thẩm số 238/2017/HS-ST ngày 29 tháng 12 năm 2017 của Toà án nhân dân thành phố Cà M về áp dụng pháp luật về tình tiết giảm nhẹ mới.
Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 của Bộ luật hình sự năm 1999.
Xử phạt: Bị cáo Trần Văn C 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo vào trại chấp hành án.
2. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 26/2018/HS-PT ngày 29/03/2018 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 26/2018/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Cà Mau |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/03/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về