TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN S, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 26/2018/HNGĐ-ST NGÀY 30/07/2018 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON CHUNG
Trong ngày 30/7/2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận S, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 31/2018/TLST-HNGĐ ngày 01/3/2018 về tranh chấp: “Ly hôn và tranh chấp nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 31/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 27/6/2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 40/2018/QĐST-HNGĐ ngày 10/7/2018 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị H– Sinh năm: 1983 - Nghề nghiệp: Giáo viên mầm non - Nơi ĐKHKTT: Tổ 27D phường N, quận S, Tp Đà Nẵng- Tạm trú: Số 48 đường H, quận S, TP. Đà Nẵng; có mặt.
2. Bị đơn: Ông Đoàn Văn T – Sinh năm: 1968 - Nghề nghiệp: Làm nghề tự do - Nơi ĐKHKTT: Tổ 27D phường N, quận S, Tp Đà Nẵng- Tạm trú: Số 48 đường H, quận S, TP. Đà Nẵng; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo đơn khởi kiện gửi đến Toà án ngày 30/01/2018 và quá trình tố tụng tại Tòa án, nguyên đơn bà Nguyễn Thị H trình bày:
- Về quan hệ hôn nhân: Bà và ông Đoàn Văn T kết hôn vào năm 2005 có đăng ký kết hôn tại UBND phường N, quận S, thành phố Đà Nẵng. Hôn nhân tự nguyện. Sau khi kết hôn, vợ chồng bà chung sống tại Số 48 Hoàng Quốc Việt, quận S, TP. Đà Nẵng. Vợ chồng bà sống hạnh phúc đến đầu năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do ông Đoàn Văn T có người phụ nữ khác. Đồng thời ông T còn thường xuyên ăn nhậu không chăm lo gì đến gia đình vợ con dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi, đôi lúc còn xảy ra xô xát với nhau. Mâu thuẫn của ông bà đã được hai bên gia đình hòa giải nhưng không có kết quả. Vợ chồng bà đã ly thân từ đầu năm 2018 cho đến nay. Không liên lạc gì cũng như không quan tâm chăm sóc nhau trong cuộc sống. Nay xét thấy mục đích hôn nhân không đạt được, tình cảm của bà đối với ông T không còn, do đó bà xin được ly hôn với ông Đoàn Văn T.
- Về quan hệ con chung: Bà Nguyễn Thị H xác định bà và ông Đoàn Văn T có 02 con chung là: Đoàn Nguyên Đ, sinh ngày: 15/01/2008 và Đoàn Huy H, sinh ngày 27/05/2015. Nếu ly hôn, bà H có nguyện vọng được nuôi cả hai con và yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con 2.000.000đ/ tháng (1.000.000đ/con) cho đến khi các con chung đủ 18 tuổi.
- Về quan hệ tài sản chung: Bà Nguyễn Thị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Về nợ chung: Bà Nguyễn Thị H xác định không có.
* Đối với bị đơn – ông Đoàn Văn T mặc dù đã được Tòa án giao thông báo thụ lý vụ án, thông báo về các phiên họp kiểm tra công khai chứng cứ và hòa giải cũng như triệu tập tham gia phiên tòa nhưng ông Đoàn Văn T đều vắng mặt nên không có ý kiến đối với các yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Vì vậy Toà án không có cơ sở để xem xét yêu cầu và nguyện vọng của ông Đoàn Văn T.
*Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận S phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án. Theo đó, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa và nguyên đơn đã tuân thủ đúng pháp luật, riêng bị đơn không chấp hành triệu tập của Tòa án, chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật. Về nội dung vụ án, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận S đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điều 51, 56, 81 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc ly hôn và tranh chấp nuôi con chung.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, HĐXX nhận định:
[1] Về thủ tục: Đơn khởi kiện của bà Nguyễn Thị H nộp tại Tòa án là đúng thủ tục và thẩm quyền được quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Ông Đoàn Văn T là bị đơn trong vụ án, đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa lần thứ hai nhưng ông T vẫn vắng mặt. Hội đồng xét xử căn cứ điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự để xét xử vắng mặt bị đơn.
[2] Về nội dung: Bà Nguyễn Thị H và ông Đoàn Văn T đăng ký kết hôn vào năm 2005 tại UBND phường N, quận S, TP. Đà Nẵng theo giấy chứng nhận kết hôn số 115, quyển số 01 cấp ngày 28/12/2005. Hôn nhân tự nguyện, có thời gian tìm hiểu nhau. Đây là cuộc hôn nhân hợp pháp nên được pháp luật công nhận và bảo vệ.
Sau khi kết hôn, vợ chồng bà chung sống tại Số 48 Hoàng Quốc Việt, quận S, TP. Đà Nẵng. Vợ chồng bà sống hạnh phúc đến giữa năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do ông Đoàn Văn T có người phụ nữ khác. Đồng thời ông T còn thường xuyên ăn nhậu không chăm lo gì đến gia đình vợ con dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi, đôi lúc còn xảy ra xô xát với nhau. Mâu thuẫn của ông bà đã được hai bên gia đình hòa giải nhưng không có kết quả. Vợ chồng bà đã ly thân từ đầu năm 2018 cho đến nay. Tại phiên tòa hôm nay, bà H xác định không còn yêu thương ông T nữa, bà xin được ly hôn.
[3] Xét yêu cầu xin ly hôn của bà Nguyễn Thị H đối với ông Đoàn Văn T thì thấy: Hạnh phúc gia đình chỉ thật sự có được dựa trên sự yêu thương, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau, thế nhưng giữa bà H và ông T lại không làm được điều này. Qua xác minh tại địa phương thì được biết trong quá trình chung sống thì giữa bà H và ông T thường xuyên xảy ra cãi vả, to tiếng với nhau. Riêng đối với ông Đoàn Văn T, Tòa án đã tạo điều kiện nhiều lần để vợ chồng hòa giải mâu thuẫn, trở về đoàn tụ chung sống với nhau nhưng ông Đoàn Văn T đều vắng mặt tại các phiên hòa giải cũng như tại phiên tòa hôm nay. Việc này cho thấy ông Đoàn Văn T không tôn trọng Tòa án và thờ ơ với việc hàn gắn hạnh phúc gia đình, không có thiện chí níu kéo mối quan hệ hôn nhân của mình. Xét thấy, hiện mâu thuẫn của bà H và ông T đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nghĩ nên chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà H đối với ông T là phù hợp quy định tại Điều 51, 56 Luật hôn nhân và gia đình.
[4] Về con chung: Bà Nguyễn Thị H xác định bà và ông Đoàn Văn T có 02 con chung là: Đoàn Nguyên Đ, sinh ngày: 15/01/2008 và Đoàn Huy H, sinh ngày 27/05/2015. Nếu ly hôn, bà H có nguyện vọng được nuôi cả hai con và yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi cả 02 con mỗi tháng 2.000.000 đồng (1.000.000đồng/ con) cho đến khi các con chung đủ 18 tuổi.
Xét yêu cầu về việc nuôi con chung và yêu cầu cấp dưỡng nuôi con của bà Nguyễn Thị H thì thấy: Hiện tại cháu Đoàn Huy H còn nhỏ nên cần sự quan tâm chăm sóc của người mẹ, đối với cháu Đoàn Nguyên Đ đã trên 7 tuổi có nguyện vọng được với mẹ. Ngoài ra, sau khi bà H và ông T ly thân thì cả hai cháu đều sống chung với bà H, môi trường sinh sống và học tập đã ổn định nên cần giao các cháu cho bà H được trực tiếp nuôi dưỡng và chăm sóc để các cháu phát triển đầy đủ và toàn diện là phù hợp với quy định tại Điều 81,82, 83 Luật hôn nhân gia đình và phù hợp với nguyện vọng của cháu Đoàn Nguyên Đ nên cần xem xét chấp nhận yêu cầu của bà H là hoàn toàn chính đáng.
Đối với việc cấp dưỡng nuôi con, đây là nghĩa vụ, trách nhiệm của bên không trực tiếp nuôi con sau ly hôn, tuy nhiên mức cấp dưỡng nuôi con còn phải căn cứ vào mức thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của con chung. Vì vậy, với yêu cầu cấp của bà H buộc ông T phải cấp dưỡng nuôi 02 con chung mỗi tháng 2.000.000 đồng (1.000.000 đồng/con) là phù hợp với tình hình thực tế và phù hợp với điều 81, 82, 83, 110, 116, 117 của Luật Hôn nhân và gia đình nghĩ nên chấp nhận.
[5] Về tài sản chung: Bà H xác định tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Còn ông T vắng mặt nên không ghi được ý kiến về tài sản chung. Vì vậy, Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết trong vụ án này.
[6] Về nợ chung: Bà H xác định không có. Còn ông T không có mặt nên không ghi được ý kiến về nợ chung. Vì vậy, Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết trong vụ án này.
[7] Án phí HNGĐ sơ thẩm: bà Nguyễn Thị H phải chịu theo quy định của pháp luật.
[8] Án phí cấp dưỡng nuôi con: ông Đoàn Văn T phải chịu theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ: Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự;
- Căn cứ Điều 51, Điều 56, 81, 82, 83, 110,116, 117 Luật hôn nhân và gia đình;
- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thườn vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc "Ly hôn, tranh chấp nuôi con chung" của bà Nguyễn Thị H đối với ông Đoàn Văn T.
Xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Cho bà Nguyễn Thị H được ly hôn với ông Đoàn Văn T.
Do chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Nguyễn Thị H đối với ông Đoàn Văn T nên giấy chứng nhận kết hôn số 115, quyển số 01 do UBND phường N, quận S, thành phố Đà Nẵng cấp ngày 28/12/2005 cho bà Nguyễn Thị H và ông Đoàn Văn T không còn giá trị pháp lý.
2. Về quan hệ con chung: Giao con chung Đoàn Nguyên Đ, sinh ngày: 15/01/2008 và Đoàn Huy H, sinh ngày 27/05/2015 cho bà Nguyễn Thị H được trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi các con chung đủ 18 tuổi. Ông Đoàn Văn T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cả 02 con mỗi tháng 2.000.000 đồng (1.000.000đồng/ con) cho đến khi các con chung đủ 18 tuổi. Thời gian thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng kể từ tháng 08/2018
Các bên vẫn được thực hiện mọi quyền và nghĩa vụ đối với con chung theo quy định của pháp luật. Khi cần thiết vì lợi ích con chung các bên có quyền xin thay đổi người nuôi con chung hoặc yêu cầu thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con chung.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015
3. Án phí HNGĐ-ST 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) bà Nguyễn Thị H phải chịu nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) bà H đã nộp tại biên lai thu số 8541 ngày 27/02/2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận S, thành phố Đà Nẵng. Bà Nguyễn Thị H đã nộp đủ án phí.
4. Án phí cấp dưỡng nuôi con: 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) ông Đoàn Văn T phải chịu.
Án xử công khai sơ thẩm, nguyên đơn có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được trích sao hoặc niêm yết bản án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự. người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự, người phải thi hành dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 26/2018/HNGĐ-ST ngày 30/07/2018 về ly hôn và tranh chấp nuôi con chung
Số hiệu: | 26/2018/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Sơn Trà - Đà Nẵng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 30/07/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về