Bản án 26/2018/HNGĐ-ST ngày 08/08/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BUÔN HỒ, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 26 /2018/HNGĐ-ST NGÀY 08/08/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 08/8/2018, tại trụ sở Toà án nhân dân thị xã Buôn Hồ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 60/2018/TLST–HNGĐ ngày 09/4/2018 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 34/2018/QĐXX- HNGĐ ngày 11 tháng 7 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Phan Thị V, có mặt.

Địa chỉ: Tổ dân phố N, phường Đ, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Trọng L, vắng mặt.

Địa chỉ: Tổ dân phố N, phường Đ, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 27/3/2018 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn chị Phan Thị V trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Tôi và anh Nguyễn Trọng L tự nguyện đăng ký kết hôn với nhau ngày 09/3/2007 tại UBND xã B, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Quá trình sống chung vợ chồng sống hạnh phúc được thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh L bài bạc, không chịu làm ăn, ngoài ra còn đánh đập vợ. Nay tôi nhận thấy vợ chồng tôi không thể tiếp tục sống chung với nhau được nữa, nên tôi yêu cầu Toà án giải quyết cho tôi được ly hôn với anh L.

Về con chung: Quá trình sống chung chúng tôi có 01 con chung tên là Nguyễn Thị Cẩm V, sinh ngày 24/10/2007, tôi có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung đến tuổi trưởng thành (Tròn 18 tuổi). Về cấp dưỡng nuôi con: Tôi không yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản và công nợ chung: Tôi không yêu cầu Toà án giải quyết.

Đối với bị đơn anh Nguyễn Trọng L đã được Toà án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do nên Toà án không lấy lời khai, không tiến hành việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và tiến hành hoà giải với anh L được.

Tại biên bản xác minh ngày 10/7/2018 của Toà án nhân dân thị xã Buôn Hồ về tình trạng hôn nhân của chị V và anh L như sau: Chị Phan Thị V và anh Nguyễn Trọng L kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 09/3/2007 tại UBND xã B, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Trong quá trình chung sống anh chị sống hạnh phúc được thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh L bài bạc, không chịu làm ăn, ngoài ra còn đánh đập vợ.

Tại phiên toà nguyên đơn chị Phan Thị V giữ nguyên yêu cầu.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu, xem xét các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn anh Nguyễn Trọng L đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do. Căn cứ b điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228  Bộ Luật tố tụng dân sự

[2] Về quan hệ pháp luật: Chị Phan Thị V và anh Nguyễn Trọng L kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 09/3/2007 tại UBND xã B, huyện K, tỉnh Đắk Lắk, đây là hôn nhân hợp pháp khi có tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 BLTTDS.

[3] Về nội dung tranh chấp: ét yêu cầu của nguyên đơn HĐ thấy: Chị V, anh L kết hôn với nhau ngày 09/3/2007, sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do anh L bài bạc, không chịu làm ăn, ngoài ra còn đánh đập vợ. ét thấy, tình trạng hôn nhân trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Chị V yêu cầu được ly hôn anh L cơ bản phù hợp với các biên bản xác minh tình trạng hôn nhân, ý kiến chị V và phù hợp với khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 nên cần chấp nhận.

[4] Về con chung: ét nguyện vọng của chị Phan Thị V được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung Nguyễn Thị Cẩm V, sinh ngày 24/10/2007 đến tuổi trưởng thành (Tròn 18 tuổi) và không yêu cầu anh L phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung, là phù hợp với yêu cầu nguyện vọng của chị V và nguyện vọng của con chung nên cần chấp nhận.

[5] Về tài sản và công n chung: Chị V không yêu cầu nên HĐ không xem xét giải quyết.

[6] Về án phí: Chị Phan Thị V chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 144; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự. 

Căn cứ khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH12 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn:

-Về hôn nhân: Cho chị Phan Thị V được ly hôn với anh Nguyễn Trọng L.

-Về con chung: Giao con chung Nguyễn Thị Cẩm V, sinh ngày 24/10/2007 cho chị Phan Thị V được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành (Tròn 18 tuổi). Về cấp dưỡng nuôi con chung chị V không yêu cầu nên Toà án không xem xét giải quyết.

Anh L được quyền đi lại thăm nom con chung mà không ai được cản trở, vì lợi ích của con theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi dưỡng con chung.

-Về tài sản và công nợ chung: Chị V không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết.

-Về án phí: Chị Phan Thị V chịu 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm được khấu trừ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số AA/2016/0003746, ngày 09/4/2018, tại cục thi hành án dân sự thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk.

Nguyên đơn có quyền kháng cáo án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn có quyền kháng cáo án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

198
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 26/2018/HNGĐ-ST ngày 08/08/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:26/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Buôn Hồ - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về