Bản án 26/2018/HNGĐ-ST ngày 05/07/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN K, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 26/2018/HNGĐ-ST NGÀY 05/07/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 05 tháng 7 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện K xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 84/2018/TLST-HNGĐ, ngày 11 tháng 5 năm 2018 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 21/2018/QĐXX-ST ngày 21 tháng 6 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Vũ Thị H, sinh năm 1988; địa chỉ cư trú: Thôn 3, xã K1, huyện K, thành phố Hải Phòng; có mặt.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Sỹ Q, sinh năm 1983; địa chỉ cư trú: Thôn 3, xã K1, huyện K, thành phố Hải Phòng; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn ngày 02/5/2018 và bản tự khai ngày 15/5/2018 chị H trình bày: Chị tự nguyện chung sống với anh Nguyễn Sỹ Q từ năm 2004 nhưng đến ngày 28/10/2005 mới đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã K1, huyện K. Nói chung vợ chồng sống hạnh phúc được khoảng 10 năm. Tuy nhiên trong quá trình sống chung mâu thuẫn vợ chồng phát sinh từ tháng 07/2015 do phong cách sống không còn phù hợp, vợ chồng không thống nhất trong làm ăn kinh tế, anh Q lối sống gia trưởng, luôn áp đặt cách sống đối với chị, không tôn trọng chị, thường xuyên gây sự đánh chửi vợ con. Vợ chồng thường xuyên xảy ra đánh cãi nhau. Mặc dù chị cố gắng sống chịu đựng, cùng gia đình, thôn xóm nhiều lần khuyên bảo anh Q thay đổi cách sống để vợ chồng trở lại sống đoàn tụ nhưng không thành. Chị bỏ về nhà mẹ đẻ ở nhiều lần, lần sau cùng từ tháng 2/2018 đến nay, không ai quan tâm đến cuộc sống chung. Do tình trạng hôn nhân ngày càng trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài; chị xin ly hôn anh Q.

Về con chung: Có 02 con là Nguyễn Linh Q1, sinh ngày 08/10/2005 và Nguyễn Mai T, sinh ngày 19/9/2010; hiện cháu Q1 đang do anh Q nuôi dưỡng, cháu T đang do chị nuôi dưỡng. Chị xin tiếp tục nuôi dưỡng cháu T, đồng ý để anh Q tiếp tục nuôi dưỡng cháu Q1 đến khi cả 02 cháu đủ 18 tuổi; trên cơ sở nguyện vọng của các cháu; không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản, công nợ: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Anh Q trình bày tại bản tự khai ngày 16/5/2018: Thống nhất với chị H về thời gian kết hôn, thời gian vợ chồng chung sống hạnh phúc. Mâu thuẫn vợ chồng phát sinh từ giữa năm 2015 do phong cách sống không phù hợp, vợ chồng không thống nhất trong làm ăn kinh tế. Chị H đối xử với gia đình anh không đúng mực. Anh có nóng tính dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi chửi nhau, mỗi lần cãi chửi nhau thì chị H lại bỏ về nhà mẹ đẻ ở. Anh đã 8 lần sang gia đình chị H xin lỗi để vợ chồng trở lại đoàn tụ nhưng chỉ được thời gian ngắn mâu thuẫn lại xảy ra. Chị H bỏ về nhà mẹ đẻ ở lần sau cùng từ tháng 2/2018 đến nay, không ai quan tâm đến cuộc sống chung. Nay anh xét thấy mâu thuẫn đã kéo dài trầm trọng, cuộc sống chung không còn tồn tại nhưng anh xét thấy tình cảm vẫn còn; anh xin đoàn tụ với chị H để nuôi dạy con chung.

Về con chung: Có 02 con là Nguyễn Linh Q1, sinh ngày 08/10/2005 và Nguyễn Mai T, sinh ngày 19/9/2010; hiện cháu Q1 đang do anh nuôi dưỡng, cháu T đang do chị H nuôi dưỡng. Anh xin tiếp tục nuôi dưỡng cháu Q1, đồng ý để chị H tiếp tục nuôi dưỡng cháu T đến khi cả 02 cháu đủ 18 tuổi; trên cơ sở nguyện vọng của các cháu; không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản, công nợ: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện K phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án.

Nguyên đơn, bị đơn chấp hành đầy đủ các quy định của pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án.

Về việc giải quyết vụ án:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị H và anh Q tự nguyện kết hôn năm 2005, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã K1, huyện K. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến tháng 7 năm 2015 phát sinh mâu thuẫn do phong cách sống không còn phù hợp, vợ chồng không thống nhất trong làm ăn kinh tế. Anh Q lối sống gia trưởng, nóng nảy thường hay đánh chửi vợ con, vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi mắng nhau. Mặc dù gia đình, thôn xóm đã nhiều lần khuyên giải để vợ chồng sống đoàn tụ nhưng không thành. Chị H bỏ về nhà mẹ đẻ ở nhiều lần, lần sau cùng từ tháng 02/2018 đến nay, không ai quan tâm đến cuộc sống chung. Anh Q cũng thừa nhận mâu thuẫn đã kéo dài trầm trọng, chị H đã bỏ về nhà mẹ đẻ ở 8 lần, không quan tâm đến cuộc sống chung. Nay chị H xin ly hôn, anh Q xin đoàn tụ. Xét yêu cầu của hai bên thấy rằng tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn rất trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài; Nên chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị H.

Căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình; đề nghị Hội đồng xét xử: Xử cho chị Vũ Thị H được ly hôn anh Nguyễn Sỹ Q.

2. Về con chung: Anh chị có 02 con là Nguyễn Linh Q1, sinh ngày 08/10/2005 và Nguyễn Mai T, sinh ngày 19/9/2010; Cháu Q1 có nguyện vọng ở với anh Q, cháu T có nguyện vọng ở với chị H. Chị H và anh Q đều thống nhất giao cháu Q1 cho anh Q nuôi dưỡng, giao cháu T cho chị H nuôi dưỡng đến khi cả 02 cháu đủ 18 tuổi cần chấp nhận.

Căn cứ vào Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; đề nghị Hội đồng xét xử: Giao cháu Nguyễn Linh Q, sinh ngày 08/10/2005 cho anh Q nuôi dưỡng, giao cháu Nguyễn Mai T, sinh ngày 19/9/2010 cho chị H nuôi dưỡng đến khi cả 02 cháu đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật là phù hợp. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, hai bên đương sự đều không yêu cầu Tòa án giải quyết; nên không xem xét giải quyết.

3. Về tài sản, công nợ: Đều không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Chị H phải chịu 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

 [1] Về quan hệ hôn nhân: Chị H tự nguyện kết hôn với anh Q năm 2005 có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã K1, huyện K. Đánh giá chung vợ chồng sống hạnh phúc được khoảng 10 năm. Song trong thời gian sống chung mâu thuẫn phát sinh từ tháng 7 năm 2015 do phong cách sống không phù hợp, vợ chồng không thống nhất trong làm ăn kinh tế. Anh Q sống gia trưởng, nóng nảy thường xuyên đánh chửi vợ con, vợ chồng thường xuyên xảy ra đánh cãi nhau. Mặc dù gia đình, thôn xóm đã nhiều lần khuyên giải để vợ chồng đoàn tụ nhưng không thành. Chị H bỏ về nhà mẹ đẻ ở nhiều lần, lần sau cùng từ tháng 02/2018 đến nay, không ai quan tâm đến cuộc sống chung. Anh Q cũng thừa nhận mâu thuẫn đã kéo dài trầm trọng, chị H đã bỏ về nhà mẹ đẻ ở 8 lần, không quan tâm đến cuộc sống chung. Nay chị H xin ly hôn, anh Q xin đoàn tụ. Nhưng qua điều tra xác minh theo yêu cầu của đương sự tại UBND xã K1 cho biết: Mâu thuẫn vợ chồng xảy ra từ tháng 7 năm 2015 đến nay ngày càng trầm trọng, tình cảm không còn, cuộc sống chung không thể kéo dài. Do đó yêu cầu xin ly hôn của chị H là có cơ sở chấp nhận; Nên xử cho chị H được ly hôn anh Q là phù hợp.

 [2] Về con chung: Anh chị có 02 con là Nguyễn Linh Q1, sinh ngày 08/10/2005 và Nguyễn Mai T, sinh ngày 19/9/2010. Cháu Q1 có nguyện vọng ở với anh Q, cháu T có nguyện vọng ở với chị H được chấp nhận. Cần giao cháu Q1 cho anh Q nuôi dưỡng, giao cháu T cho chị H nuôi dưỡng đến khi cả 02 cháu đủ 18 tuổi là phù hợp. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, hai bên đương sự đều không yêu cầu Tòa án giải quyết; nên không xem xét giải quyết.

 [3] Về tài sản, công nợ: Đều không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xem xét giải quyết.

 [4] Về án phí: Chị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo luật định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81; 82; 83 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ vào khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Vũ Thị H được ly hôn anh Nguyễn Sỹ Q.

2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Linh Q1, sinh ngày 08/10/2005 cho anh Q nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Giao cháu Nguyễn Mai T, sinh ngày 19/9/2010 cho chị H nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật; không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Sau khi ly hôn, hai bên đều có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị H phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số: AA.0012039 ngày 11/5/2018 tại

Chi cục Thi hành án dân sự huyện K. Chị H đã chịu đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

188
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 26/2018/HNGĐ-ST ngày 05/07/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:26/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kiến Thuỵ - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về