Bản án 261/2018/HS-ST ngày 19/11/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐIỆN BIÊN, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 261/2018/HS-ST NGÀY 19/11/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 19 tháng 11 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 264/2018/TLST- HS ngày 24 tháng 10 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 269/2018/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 11 năm 2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Tòng Văn T. Tên gọi khác: Không; sinh năm 1986 Tại: Điện Biên.

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Bản O, xã L, thị xã M, tỉnh Điện Biên.

Nghề nghiệp: Giáo viên; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Tòng Văn P và con bà: Tòng Thị T; vợ: Chu Thị D và có 02 con, con lớn sinh năm 2013, con nhỏ sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 30/9/2009 bị Công an phường M, thành phố Đ quyết định xử phạt vi phạm hành chính, bị cáo đã chấp hành xong, được coi là chưa bị xử lý vi phạt vi phạm hành chính; bị bắt tạm giữ, giam từ ngày 18/7/2018. Bị cáo có mặt tại phiên toà.

Người bào chữa cho bị cáo: Ông Phùng Việt Hoa. Là Luật sư của văn phòng Luật sư Phùng Việt Hoa thuộc đoàn Luật sư tỉnh Điện Biên (Có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ ngày 18/7/2018, Tòng Văn T đi bộ từ nhà bố mẹ đẻ ở đội 17, xã Noong Hẹt, huyện Điện Biên ra đầu đường đi xe ôm đến đội 05, xã Thanh Yên, huyện Điện Biên tìm mua heroine về sử dụng. Tại đây, T đã mua được 01 gói heroine với giá 200.000 đồng của một người đàn ông dân tộc Thái (T không biết tên và địa chỉ). Sau khi mua xong, T cất gói heroine vào túi quần bên phải đang mặc đi về nhà. Hồi 21 giờ cùng ngày, khi T đang đi bộ về đến đội 02 xã Thanh Yên, huyện Điện Biên thì bị tổ công tác Công an huyện Điện Biên phối hợp với Công an xã Thanh Yên phát hiện bắt quả tang thu giữ tại túi quần bên phải T đang mặc 01 gói heroine được gói bên ngoài bằng nilon màu trắng.

Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng lấy mẫu giám định và niêm phong vật chứng ngày 19/7/2018 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Điện Biên và Kết luận giám định số: 688/GĐ - PC54 ngày 30/7/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên đã xác định số vật chứng thu giữ của Tòng Văn T là ma túy, loại heroine có khối lượng 0,17 gam.

Tại bản Cáo trạng số 209/CT-VKSĐB ngày 23/10/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên đã truy tố bị cáo Tòng Văn T về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo điểm c khoản 1 Điều 249/BLHS.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" đề nghị Hội đồng xét xử ap dụng Điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51/BLHS. Xử phạt bị cáo Tòng Văn T từ 01 năm đến 01 năm 03 tháng tù. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47/BLHS; Điểm a Khoản 2 Điều 106/BLTTHS. Tịch thu tiêu hủy 0,17 gam heroine (Đã trích 0,07 gam gửi giám định không hoàn lại). Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bịcáo. Áp dụng khoản 2 Điều 136/BLTTHS; Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số  326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí HSST.

Tại phiên tòa, Luật sư bào chữa cho bị cáo hoàn toàn nhất trí với bản cáo trạng của VKS và Quyết định đưa vụ án ra xét xử của Tòa án. Nhất trí với tội danh VKS đã truy tố. Tuy nhiên đề nghị HĐXX xem xét về nhân thân của Tòng Văn T, bản thân Tòng Văn T chưa có tiền án, tiền sự; T là lao động chính là trụ cột trong gia đình; ông nội của T đã tham gia dân công hỏa tuyến được hưởng chế độ theo Quyết định số 49/2015/QĐ/2015/QĐ-TTg ngày 14/10/2015 của Thủ tướng Chính phủ; Bố đẻ của bị cáo đã có thành tích xuất sắc trong phong trao nông dân vượt khó xóa đói giảm nghèo được Chủ tịch UBND tỉnh Điện Biên tặng Bằng khen; Sau khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Vì vậy Luật sư đề nghị HĐXX áp dụng các tình tiết giảm nhẹ cho Tòng Văn T theo quy định tại điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51/BLHS. Xử phạt Tòng Văn T mức hình phạt khởi điểm của khoản 1 Điều 249/BLHS. KSV đối đáp: Đối với đề nghị của Luật sư, đề nghị HĐXX áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại Điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51/BLHS, Kiểm sát viên cũng đã đề nghị. Các tình tiết, bị cáo là lao động chính; ông bị cáo đã tham gia dân công hỏa tuyến, Kiểm sát viên đề nghị HĐXX xem xét bởi vì: Bị cáo có vợ là Chu Thị Diên có khả năng lao động, nên bị cáo không phải là lao động chính trong gia đình; theo hướng dẫn tại Nghị quyết 01/2000/NQ-HĐTP ngày 04/8/2000 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC thì ông của bị cáo tham gia dân công hỏa tuyến không phải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Vì vậy KSV đề nghị HĐXX xem xét về khối lượng heroine bị cáo tàng trữ, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để áp dụng mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo.

Luật sư không tranh luận gì. Bị cáo không bổ sung gì vào lời bào chữa, không tranh luận gì thêm. Hoàn toàn nhất trí với bản Cáo trạng và luận tội của Kiểm sát viên.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm được trở về với gia đình và cộng đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Điện Biên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người bào chữa đã xuất trình những chứng cứ phù hợp với quy định của pháp luật. Bị cáo, người bào chữa không có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Ngày 18/7/2018, bị cáo Tòng Văn T đã có hành vi đi mua 0,17 gam heroine mục đích để sử dụng cho bản thân. Khi bị cáo đang trên đường về nhà thì bị tổ công tác Công an huyện Điện Biên phối hợp với Công an xã Thanh Yên phát hiện, bắt quả tang và thu giữ toàn bộ vật chứng. Khối lượng heroine bị cáo tàng trữ là 0,17 gam, mục đích để sử dụng cho bản thân mà không nhằm mục đích mua bán, tàng trữ, vận chuyển, sản xuất trái phép thì hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249/BLHS năm 2015.

Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên truy tố bị cáo là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Bị cáo thực hiện tội phạm do lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi của bị cáo đơn giản, chỉ do nghiện ma túy nên đã đi mua ma túy để sử dụng cho bản thân mà không có mục đích nào khác. Tuy nhiên, hành vi đó của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, xâm phạm đến trật tự trị an, an toàn trong xã hội.

[4] Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[4.1] Về nhân thân: Bị cáo sinh ra và lớn lên tại xã N, huyện Đ, năm 2006 học tại trường Cao đẳng sư phạm tỉnh Điện Biên. Từ năm 2009 đến trước khi bị cáo bị bắt bị cáo là Giáo viên công tác tại huyện M tỉnh Điện Biên. Ngày 30/9/2009, bị Công an phường M, thành phố Điện Biên P Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi cố ý gây thương tích, bị cáo đã chấp hành xong quyết định, được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính. Bị cáo sử dụng ma túy từ năm 2018.

[4.2] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, bố đẻ của bị cáo là ông Tòng Văn P đã có thành tích xuất sắc trong phong trào nông dân vượt khó xóa đói giảm nghèo được UBND tỉnh Điện Biên tặng Bằng khen và cống hiến xuất sắc trong sự nghiệp Đại đoàn kết dân tộc được Ủy ban Trung ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam tặng kỷ niệm chương vì sự nghiệp đại đoàn kết dân tộc. Vì vậy bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điểm s Khoản 1 khoản 2 Điều 51/BLHS.

[5] Sau khi xem xét về hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Hội đồng xét xử xét thấy, cần phải áp dụng mức hình phạt phù hợp với hành vi phạm tội của bị cáo là hình phạt tù để bị cáo có điều kiện cai nghiện đồng thời giáo dục, cải tạo bị cáo thành người công dân có ích cho gia đình và xã hội.

[6] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249/BLHS, ngoài hình phạt chính bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung bằng hình Tc phạt tiền, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Xong xét hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, sống nhờ tại nhà bố mẹ vợ, tài sản không có gì nên không có khả năng thi hành. Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Bị cáo đã khai nguồn gốc số ma túy bị thu giữ là do bị cáo mua của một người đàn ông, bị cáo không biết tên và địa chỉ nên không có cơ sở để điều tra làm rõ được. Vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Vật chứng: Gồm 0,17 gam heroine (Đã trích 0,07 gam gửi giám định không hoàn lại) là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành nên cần bị tịch thu tiêu huỷ theo điểm c khoản 1 Điều 47/BLHS năm 2015; Điểm a Khoản 2 Điều 106/BLTTHS năm 2015.

[9] Về án phí: Theo quy định tại khoản 2 Điều 136/BLTTHS năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14. Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 khoản 2 Điều 51/BLHS.

1. Tuyên bố: Bị cáo Tòng Văn T phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý"

2. Hình phạt: Xử phạt bị cáo Tòng Văn T 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ 18/7/2018.

3. Xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47/Bộ luật hình sự; Điểm a Khoản 2 Điều 106/BLTTHS.

- Tịch thu tiêu huỷ 0,17 gam heroine (Đã trích 0,07 gam gửi giám định không hoàn lại)

Vật chứng đã được Công an huyện Điện Biên bàn giao sang Chi cục Thi hành án dân sự huyện Điện Biên theo biên bản bàn giao vật chứng giữa Công an huyện Điện Biên và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Điện Biên ngày 04/11/2018.

4. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136/Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lývà sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự  sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 19/11/2018).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

238
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 261/2018/HS-ST ngày 19/11/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:261/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về