Bản án 25a/2018/HNGĐ-ST ngày 10/04/2018 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẢNG ĐIỀN, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

BẢN ÁN 25a/2018/HNGĐ-ST NGÀY 10/04/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 10 tháng 4 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý 84/2018/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 11 năm 2017 về việc: “Xin ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử 01/2018/QĐST-HNGĐ ngày 21tháng 3 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Hà Thị D, sinh năm: 1985.

Nơi ĐKNKTT: Thôn Thủy Lập, xã Quảng L, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.

Địa chỉ liên lạc: 22 Tú Xương, phường Tây Lộc, thành phố H  , tỉnh Thừa Thiên Huế - có mặt.

- Bị đơn: A Nguyễn Duy H, sinh năm: 1977.

Nơi cư trú: Thôn Thủy Lập, xã Quảng L, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế - vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Trong đơn khởi kiện về việc xin ly hôn đề ngày 16/8/2017; bản tự khai ngày 05/12/2017 và tại các biên bản lấy lời khai, biên bản hòa giải nguyên đơn chị Hà Thị D trình bày: Chị và Anh Nguyễn Duy H tự nguyện tìm hiểu, tổ chức lễ cưới và chung sống với nhau vào năm 2004, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Quảng L, huyện Quảng Điền tỉnh Thừa Thiên Huế vào ngày 29/3/2004.Sau khi cưới vợ chồng chung sống tại thôn Thủy Lập, xã Quảng L được một thời gian thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do anh Nguyễn Duy H không lo làm ăn, nợ thì nhiều chị D nói đến việc nợ nần thì anh H nói nợ ai vay người đó trả nên chị D phải bỏ nhà đi làm thuê để có tiền trả nợ. Khi đi làm có tiền về trả nợ thì anh H còn đánh đập chị D nên chị D bỏ nhà ra đi cho đến bây giờ. Từ đó giữa chị D và anh H mâu thuẫn ngày càng trầm trọng hơn, bất đồng quan điểm trong mọi vấn đề của cuộc sống và không còn tình cảm gì với nhau nữa. Nay, chị D có đơn xin ly hôn với anh Nguyễn Duy H yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn.

Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng có 02 con chung. Cháu Nguyễn Duy A, sinh ngày 24/01/2005 và cháu Nguyễn Duy T sinh năm 22/1/2009. Hiện nay, cháu A và cháu T đang sống cùng với anh H. Nay ly hôn chị D xin giao cháu Duy A và cháu Duy T cho anh H chăm sóc, nuôi dưỡng đến khi các cháu trưởng thành đủ 18 tuổi.

Về việc đóng phí tổn nuôi con chung:Chị D xin đóng cấp dưỡng nuôi con chung 1.000.000đồng/tháng.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị D và anh H tự thỏa thuận nên  không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Tại biên bản lấy lời khai ngày 05/12/2018 và các biên bản hòa giải bị đơn anh Nguyễn Duy H trình bày: Chúng tôi đi đến hôn nhân hoàn toàn tự nguyện không có ai bị ép buộc hay bị lừa dối. Quá trình chung sống vợ chồng được một thời gian thì thường xuyên cãi vả, gây gỗ nhau do bất đồng quan điểm về tình cảm, về các vấn đề khác trong cuộc sống. Sau đó, vì vấn đề kinh tế gia đình chị D đi làm ăn rồi đi theo người đàn ông khác cho tới bây giờ và đã có con với người ta. Trước đây, chị D đã có đơn xin ly hôn anh nhưng anh H đã không đồng ý ; anh H muốn chị D quay trở về để cùng anh chăm sóc các con cho con anh có cha có mẹ như người ta mà chị D không quay trở về. Nay, anh H mong chị D quay trở về đoàn tụ gia đình để cùng anh chăm sóc con cái. Anh H không đồng ý ly hôn với chị D.

Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng có 02 con chung. Cháu Nguyễn Duy A, sinh ngày 24/01/2005 và cháu Nguyễn Duy T sinh năm 22/1/2009. Hiện nay, cháu A và cháu T đang sống cùng với anh H. Nếu, ly hôn anh H xin được chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Duy A và cháu Duy T cho đến khi các cháu trưởng thành đủ 18 tuổi.

Về việc đóng phí tổn nuôi con chung:anh H yêu cầu chị D đóng cấp dưỡng nuôi con chung 2.000.000đồng/tháng.

Về tài sản chung và nợ chung: anh H và chị D tự thỏa thuận nên  không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn vẫn giữ nguyên quan điểm của mình yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Duy H.

Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng có 02 con chung. Cháu Nguyễn Duy A, sinh ngày 24/01/2005 và cháu Nguyễn Duy T, sinh năm 22/1/2009. Hiện nay, cháu A và cháu T đang sống cùng với anh H. Nay ly hôn chị D xin giao cháu Duy A và cháu Duy T cho anh H chăm sóc, nuôi dưỡng đến khi các cháu trưởng thành đủ 18 tuổi.

Về việc đóng phí tổnnuôi con chung: Chị D xin đóng cấp dưỡng nuôi con chung 1.500.000đồng/tháng.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị D và anh H tự thỏa thuận nên  không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa như sau:

-Về thủ tục tố tụng : đảm bảo đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Bị đơn vắng mặt lần hai không có lý do nhưng Tòa án đã tống đạt hợp lệ, vì vậy đề nghị HĐXX vẫn tiến hành xét xử

-Về việc giải quyết vụ án đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56; Điều 81, 82, 83, 110, 116, 117 Luật Hôn nhân và gia đình để chấp nhận yêu cầu của chị Hà Thị D được ly hôn với A Nguyễn Duy H. Về con chung: Giao 02 cháu A và T cho anh H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng đến khi các cháu trưởng thành; chị Hà Thị D phải chịu tiền cấp dưỡng nuôi con chung 1.500.000 đ/tháng. Về tài sản chung và nợ chung: Chị D và anh H tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

1.Về tố tụng: tại phiên Tòa bị đơn là anh Nguyễn Duy H vắng mặt lần thứ hai không có lý do. Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ theo quy định. Căn cứ vào khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng Dân sự Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án .

2.Về nội dung vụ án:

Về hôn nhân: Chị Hà Thị D và anh Nguyễn Duy H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Quảng L, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế vào ngày 29/3/2004, điều kiện và thủ tục kết hôn đúng theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình. Vì vậy, đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp.

Quá trình chung sống vợ chồng được một thời gian thì thường xuyên cãi vả, gây gỗ nhau do bất đồng quan điểm về tình cảm, về các vấn đề khác trong cuộc sống. Nguyên nhân do vấn đề kinh tế khó khăn chị D và anh H ngày càng mâu thuẫn trầm trọng nên chị D phải bỏ nhà đi làm thuê để có tiền trả nợ. Khi đi làm có tiền về trả nợ thì anh H còn đánh đập chị D nên chị D bỏ nhà ra đi cho đến bây giờ.

Từ đó, giữa chị D và A H mâu thuẫn ngày càng trầm trọng hơn, bất đồng quan điểm trong mọi vấn đề của cuộc sống, sống ly thân đã hơn 4 năm nay và không còn tình cảm gì với nhau nữa. Như vậy tình trạng vợ chồng chị D và A H đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nghĩ cần áp dụng Điều khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 để chấp nhận yêu cầu của chị Hà Thị D được ly hôn với A Nguyễn Duy H. Việc A H có trình bày chị D đi theo người khác và có con với người khác là không có cơ sở .

Về con chung:Quá trình chung sống vợ chồng có 02 con chung. Cháu Nguyễn Duy A,sinh ngày 24/01/2005 và cháu Nguyễn Duy T, sinh năm 22/1/2009. Hiện nay, cháu A và cháu T đang sống cùng với A H. Nay ly hôn chị D xin giao cháu Duy A và cháu Duy T cho A H chăm sóc, nuôi dưỡng đến khi các cháu trưởng thành đủ 18 tuổi. Do, nguyên đơn chị D có nguyện vọng giao con chung cho bị đơn chăm sóc, nuôi dưỡng và bị đơn A H cũng có nguyện vọng xin được chăm sóc, nuôi dưỡng con chung. Cháu Duy A và Duy T có ý kiến xin được ở với ba. Để đảm bảo quyền L về mọi mặt cho các con chung, cần căn cứ Điều 81; 82 Luật hôn nhân và gia đình để giao cháu Duy A và Duy T cho A H trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc các cháu đến khi các cháu trưởng thành đủ 18 tuổi.

Về việc đóng phí tổn nuôi con chung: chị D xin được đóng cấp dưỡng nuôi con chung 1.000.000đồng/tháng vì điều kiện kinh tế khó khăn; còn A H thì yêu cầu chị D đóng cấp dưỡng nuôi con chung 2.000.000đồng/tháng Tại phiên Tòa chị D đồng ý mức cấp dưỡng mỗi tháng là 1.500.000 đ; xét thấy đây là sự tự nguyện của đương sự, nên Hội đồng xét xử chấp nhận .

Về tài sản chung và nợ chung: Nguyên đơn và bị đơn tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về án phí dân sự sơ thẩm: Nguyên đơn chị Hà Thị D phải chịu án phí dân sự sở thẩm đối với yêu cầu xin ly hôn và cấp dưỡng theo quy định tại khoản 5, khoản 6 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về việc quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Áp dụng Điều 51; khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu của chị Hà Thị D được ly hôn với A Nguyễn Duy H.

Về con chung và nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con: Căn cứ Điều 81, 82, 83, 110,116,117 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Tuyên xử: Giao cháu Nguyễn Duy A, sinh ngày 24/01/2005 và cháu Nguyễn Duy T, sinh năm 22/1/2009 cho anh Nguyễn Duy H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng đến khi các cháu trưởng thành đủ 18 tuổi.

Chị Hà Thị D đóng phí tổn nuôi con chung 1.500.000đồng/tháng kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi cháu Nguyễn Duy T trưởng thành đủ 18 tuổi. Chị D có quyền thăm nom các con chung sau khi ly hôn.

Kể từ khi anh H có đơn yêu cầu thi hành án, chị D không nộp đủ khoản tiền cấp dưỡng trên thì còn phải chịu lãi tính theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước quy định tại thời điểm thi hành án tương ứng với thời gian chậm thi hành án.

Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ vào khoản 5, khoản 6 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về việc quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án. Chị Hà Thị D phải chịu án 300.000 đồng án phí ly hôn và 300.000 đồng án phí về cấp dưỡng nuôi con chung.

Chị Hà Thị D đã nộp 300.000đồng tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm tại biên lai số AA/2013/002537 ngày 01/11/2017 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Quảng Điền.Nay, chị Hà Thị D phải nộp thêm số tiền 300.000đồng tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.

Báo cho cácđương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng người vắng mặt được kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án,quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, được sửa đổi bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung Luật thi hành án dân sự năm 2014, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự và Điều 7a, 7b Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi hành án dân sự năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

205
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 25a/2018/HNGĐ-ST ngày 10/04/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:25a/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quảng Điền - Thừa Thiên Huế
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 10/04/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về