Bản án 259/2019/HS-PT ngày 05/06/2019 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 259/2019/HS-PT NGÀY 05/06/2019 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 05 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 177/2019/TLPT-HS ngày 25/4/2019 đối với các bị cáo Nguyễn Lê Văn D K và Dung Q P do có kháng cáo của bị hại Dương Nguyễn H S đối với bản án hình sự sơ thẩm số 28/2019/HSST ngày 18/03/2019 của Tòa án nhân dân quận BT, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị cáo bị kháng cáo:

1. Dung Q P; sinh ngày: 06/10/1998, tại Thành phố Hồ Chí Minh; thường trú: 57/x/a D B P, Phường c, quận BT, Thành phố Hồ Chí Minh; trình độ học vấn: 12/12; nghề nghiệp: không; con ông Dung Q D và bà Lê T B; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không;

Bị bắt, tạm giam từ ngày 16/10/2018 (có mặt).

2. Nguyễn Văn Lê D K; sinh ngày: 02/8/1998, tại Quảng Ngãi; nơi đăng ký thường trú: xã T T, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi; chỗ ở: 100 N V D, Phường o, quận BT, Thành phố Hồ Chí Minh; trình độ học vấn: 12/12; nghề nghiệp: không; con ông Nguyễn V T và bà Lê T N T; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không;

Bị bắt, tạm giam từ ngày 07/9/2018 (có mặt).

Những người tham gia tố tụng:

+Bị hại: Ông Dương Nguyễn H S, sinh năm 1993; địa chỉ: 110/10 TS, phường 15, quận BT, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16h00’ ngày 08/7/2018, Nguyễn Văn Lê D K điều khiển xe gắn máy hiệu Wave đến nhà Dung Q P, sau đó cả hai ngồi uống rượu thì cha mẹ của P về la mắng việc P ra ngoài chơi vay mượn tiền của Dương Nguyễn H S (cư trú tại: 110/10 TS, Phường L, quận BT) không trả, để S có lời nói xúc phạm. Nghe vậy, nên P bực tức rủ Khải đi chém S để dằn mặt, Khải đồng ý. Đến khoảng 22h00’ cùng ngày, P đi xuống sau nhà lấy con dao làm bếp dài khoảng 30cm lận vào trong người rồi cùng Khải đi xe gắn máy Wave đến quán nước số 114A TS, Phường 15, quận BT thì thấy S đang ở trong quán. P dừng xe cách quán khoảng 20 mét, lấy con dao đưa cho Khải và đứng ngoài chờ, Khải đi vào trong quán chém nhiều nhát trúng vào đầu, vào tay của S thì bị người dân rượt đuổi, trong lúc chạy Khải quăng bỏ con dao rồi trốn vào nhà dân gần đó. Sau đó, Công an Phường 15, quận BT đến đưa Khải về phường làm việc, còn P điều khiển xe về nhà bà nội, sau đó đến Công an phường 15, quận BT trình diện nên lập hồ sơ chuyển Công an quận BT xử lý. Quá trình làm việc, Cơ quan điều tra giao P và Khải cho gia đình bảo lãnh.

Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 399/TgT.18 ngày 04/6/2018 và kết luận giám định pháp y về thương tích bổ sung số 581.B/TgT.18 ngày 23/10/2018 của Trung tâm pháp y - Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh đối với đương sự Dương Nguyễn H S kết luận :

- Vết thương vùng trán trên phải gây đứt da, mẻ bản sọ ngoài dài 2,4cm đã được điều trị khâu vết thương, hiện còn một sẹo kích thước 04x0,1cm ổn định.

- Vết thương lóc da đầu vùng đỉnh phải, đã được điều trị khâu vết thương, hiện chưa cắt chỉ và còn gạc khâu đỉnh tại một phần vết thương kích thước 9x0,1cm.

- Hai vết thương phần mềm gây thủng đứt da, đã được điều trị khâu vết thương, hiện còn các sẹo:

+ Một vết kích thước 2,7 x 0,2cm tại vùng trước vai phải + Một vết kích thước 4 x 0,1cm tại mặt sau ngoài 1/3 giữa cẳng tay phải + Tình trạng các thương tích ổn định Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 14%.

Tại các vùng trán trên phải, tại vùng đỉnh phải, hai vết còn lại do vật sắc, vật sắc nhọn tác động mạnh gây ra hoặc vật có cạnh sắc gây ra. Tất cả các thương tích không nguy hiểm đến tính mạng.

Về trách nhiệm dân sự: Anh Dương Nguyễn H S yêu cầu bồi thường số tiền 35.000.000 đồng.

Vật chứng: 01 con dao không thu giữ được.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 28/2019/HSST ngày 18/3/2019 của Tòa án nhân dân quận BT, Thành phố Hồ Chí Minh đã tuyên xử:

Tuyên bố bị cáo Dung Q P và Nguyễn Văn Lê D K phạm tội: “Cố ý gây thương tích”.

+ Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm d khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015.

- Xử phạt: bị cáo Dung Q P 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 16/10/2018.

- Xử phạt: bị cáo Nguyễn Văn Lê D K 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 07/9/2018.

Ngoài ra, bản án còn tuyên về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Ngày 29/3/2019, bị hại Dương Nguyễn H S kháng cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân quận BT kháng cáo với nội dung đề nghị tăng nặng hình phạt đối với các bị cáo Dung Q P và Nguyễn Văn Lê D K.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị hại Dương Nguyễn H S giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và đề nghị xét xử nghiêm theo quy định của pháp luật vì sau khi gây án đến nay các bị cáo và gia đình không bồi thường mà bị cáo P còn đăng facebook và đe dọa giết bị cáo.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố sau khi tóm tắt nội dung vụ án, phân tích tính chất, mức độ và hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra cũng như các tình tiết định khung, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; đã kết luận đủ căn cứ xác định bản án sơ thẩm xét xử các bị cáo Dung Q P và Nguyễn Văn Lê D K về tội “Cố ý gây thương tích” theo Khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là thỏa đáng, mức hình phạt 02 năm 06 (sáu) tháng tù đối với các bị cáo là phù hợp tính chất, mức độ phạm tội và nhân thân bị cáo.

Sau khi xét xử sơ thẩm, bị hại có đơn kháng cáo đề nghị tăng hình phạt đối với các bị cáo là trong thời gian luật định là hợp lệ nên cần được xem xét.

Về nội dung: Xét, bị hại Dương Nguyễn H S kháng cáo đề nghị tăng nặng hình phạt đối với các bị cáo vì từ khi vụ án xảy ra đến nay bị cáo và gia đình không bồi thường không phải là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, không chấp nhận kháng cáo của bị hại và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Bị hại Dương Nguyễn H S đề nghị Hội đồng xem xét các bị cáo dùng dao bất ngờ chém nhiều nhát vào đầu tôi từ phía sau, khi tôi quay lại tiếp tục chém vào đầu phía trước là tôi rất hoảng loạn, nên cần xét xử nghiêm minh theo quy định của pháp luật xem các bị cáo muốn giết tôi hay gây thương tích.

Các bị cáo không tranh luận chỉ xin xem xét giữ nguyên bản án sơ thẩm vì đã nhận thức được hành vi vi phạm pháp luật của mình và mong muốn có cơ hội sớm chấp hành xong bản án và làm lại cuộc đời.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên và bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Tại phiên tòa, các bị cáo Dung Q P và Nguyễn Văn Lê D K đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình cùng đồng phạm, phù hợp với nội dung bản án sơ thẩm và bản cáo trạng truy tố; phù hợp với các tài liệu, chứng cứ: biên bản vụ việc, biên bản lời khai của (bị hại và người làm chứng), hung khí các bị cáo khai sử dụng gây án phù hợp với thương tích gây ra cho bị hại thể hiện tại bản kết luận giám định pháp y (kém bản ảnh), cùng các tài liệu, biên bản về hoạt động tố tụng khác của Cơ quan điều tra đã thu thập có trong hồ sơ vụ án.

Đã đủ cơ sở để kết luận: Vào tối ngày 08/7/2018, trong lúc uống rượu say và nghe mẹ của mình nói anh Dương Nguyễn H S đến nhà đòi nợ và chửi bới nên Dung Q P tức giận rủ Nguyễn Văn Lê D K đi chém anh S để dằn mặt, Khải đồng ý. Đến khoảng 22h00’ cùng ngày, P đi xuống sau nhà lấy 01 con dao làm bếp lưỡi bằng kim loại dài khoảng 30cm lận vào trong người rồi đi xe gắn máy chở Khải đến quán nước số 114A TS, Phường 15, quận BT thì thấy anh S đang ở trong quán. P dừng xe cách quán khoảng 20 mét, lấy con dao đưa cho Khải và đứng ngoài chờ, Khải đi vào trong quán dùng dao chém nhiều nhát trúng vào đầu, vào tay của S gây thương tích.

Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 399/TgT.18 ngày 04/6/2018 và kết luận giám định pháp y về thương tích bổ sung số 581.B/TgT.18 ngày 23/10/2018, của Trung tâm pháp y - Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh đối với đương sự Dương Nguyễn H S, kết luận:

- Vết thương vùng trán trên phải gây đứt da, mẻ bản sọ ngoài dài 2,4cm đã được điều trị khâu vết thương, hiện còn một sẹo kích thước 04x0,1cm ổn định.

- Vết thương lóc da đầu vùng đỉnh phải, đã được điều trị khâu vết thương, hiện chưa cắt chỉ và còn gạc khâu đỉnh tại một phần vết thương kích thước 9x0,1cm.

- Hai vết thương phần mềm gây thủng đứt da, đã được điều trị khâu vết thương, hiện còn các sẹo:

+ Một vết kích thước 2,7x0,2cm tại vùng trước vai phải

+ Một vết kích thước 4x0,1cm tại mặt sau ngoài 1/3 giữa cẳng tay phải

+ Tình trạng các thương tích ổn định Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 14%.

Tại các vùng trán trên phải, tại vùng đỉnh phải, hai vết còn lại do vật sắc, vật sắc nhọn tác động mạnh gây ra hoặc vật có cạnh sắc gây ra.

Tất cả các thương tích không nguy hiểm đến tính mạng.

Xét, mặc dù giữa bị hại và các bị cáo trước đó không có mâu thuẫn nhưng khi nghe mẹ mình nói anh P sang đòi tiền và chửi vì cho P mượn tiền đã lâu không trả, với thái độ coi thường tính mạng, sức khỏe của người khác, bị cáo P lại khởi xướng rủ rê, bị cáo Khải tích cực tham gia và chuẩn bị 01 con dao lưỡi bằng kim loại dài khoảng 30cm (là hung khí) chủ động đi tìm kiếm và sử dụng để tấn công chém nhiều nhát với lực tác động mạnh vào đầu, vào tay anh Dương Nguyễn H S gây thương tích với tỷ lệ tôn thương cơ thể là 14%; nên phạm tội thuộc trường hợp “dùng hung khí nguy hiểm” và “có tính côn đồ”, đây là những tình tiết định khung trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo.

Với hậu quả gây ra cho bị hại và hành vi nêu trên của các bị cáo, Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên bố và xét xử Dung Q P và Nguyễn Văn Lê D K phạm tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ Khoản 2 Điều 134 (thuộc trường hợp theo quy định tại các điểm a, i khoản 1 Điều này) Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là đúng người, đúng tội, không oan sai.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ, mà còn gây mất trật tự trị an xã hội tại địa phương. Các bị cáo Dung Q P và Nguyễn Văn Lê D K là người có đầy đủ khả năng nhận thức được hành vi của mình là trái pháp luật nhưng với bản tính hung hăng, côn đồ xem thường sức khỏe người khác vẫn bất chấp sự nghiêm cấm của pháp luật, cố ý phạm tội.

Xét về hình thức đơn kháng cáo: Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 29/3/2019, bị hại có đơn kháng cáo là làm trong thời hạn theo quy định tại Điều 342 Bộ luật Tố tụng hình sự nên được chấp nhận.

Về nội dung kháng cáo: Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã nhận định về các tình tiết giảm nhẹ: các bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, thể hiện sự ăn năn hối cải; nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; riêng bị cáo Khải gia đình còn có công với cách mạng, có ông nội tham gia kháng chiến và được tặng thưởng Huân chương và danh hiệu dũng sĩ; theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự để xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt. Ngoài ra, cấp sơ thẩm còn áp dụng tình tiết tăng nặng “phạm tội có tính chất côn đồ” quy định tại điểm d khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) khi quyết định hình phạt đối với bị cáo, là chưa phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án, với quy định của pháp luật; bởi lẽ: Trong vụ án, các bị cáo Dung Q P và Nguyễn Văn Lê D K phạm tội thuộc trường hợp “dùng hung khí nguy hiểm” và “có tính côn đồ”, đây là những tình tiết định khung trách nhiệm hình sự theo quy định tại các điểm a, i khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); và sau khi gây án đến nay, các bị cáo và gia đình bị cáo không liên hệ bị hại để xin lỗi hay bồi thường, khắc phục thiệt hại về sức khỏe bị hại (bị cáo P còn đăng facebook có những lời lẽ hăm dọa, đe dọa đến sự an toàn về tính mạng, sức khỏe bị hại – bút lục: 45); không thể hiện sự ăn năn, hối cải về lỗi lầm của mình nên cấp sơ thẩm cho các bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ này là không có cơ sở.

Xét tính chất, mức độ phạm tội và nhân thân các bị cáo, với những thiếu xót nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt các bị cáo Dương Q P và Nguyễn Văn Lê D K, mỗi bị cáo mức án 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù là có phần nhẹ, chưa tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, chưa đủ tác dụng để răn đe giáo dục từng bị cáo nói riêng và công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm chung.

Đi với kháng cáo yêu cầu tăng hình phạt đối với đối với các bị cáo Dung Q P và Nguyễn Văn Lê D K là có cơ sở pháp luật như nhận định nêu trên của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận và sửa bản án sơ thẩm theo hướng tăng nặng hình phạt đối với bị cáo.

Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; bị cáo và bị hại không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các vấn đề khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

+ Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355 và Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

Chấp nhận kháng cáo của bị hại Dương Nguyễn H S, sửa bản án hình sự sơ thẩm.

Tuyên bố: các bị cáo Dung Q P và Nguyễn Văn Lê D K phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

+ Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

- Xử phạt: bị cáo Dung Q P 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 16/10/2018.

- Xử phạt: bị cáo Nguyễn Văn Lê D K 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 07/9/2018.

+ Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo và bị hại không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

168
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 259/2019/HS-PT ngày 05/06/2019 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:259/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về