TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BẾN CÁT, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 258/2020/HS-ST NGÀY 25/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 25 tháng 12 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 259/2020/TLST-HS ngày 26 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 258/2020/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:
1. Bạc Cầm T, sinh năm 1993 tại tỉnh Điện Biên; địa chỉ thường trú: Bản P, xã M, huyện T, tỉnh Điện Biên; Chỗ ở: Khu phố 2, phường T, thị xã B, tỉnh Bình Dương; dân tộc: Thái; nghề nghiệp: Phụ hồ; trình độ học vấn: 6/12; con ông Bạc Cầm Ho, sinh năm 1961 và bà Bạc Thị H, sinh năm 1972; bị cáo có 04 anh em, lớn nhất sinh năm 1992, nhỏ nhất sinh năm 1998; bị cáo chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ từ 12/8/2020 cho đến nay; bị cáo có mặt tại phiên tòa.
` 2. Lường Văn Q, sinh ngày 08/10/2003 tại tỉnh Điện Biên; địa chỉ thường trú: Bản C, xã N, huyện M, tỉnh Điện Biên; Chỗ ở: Khu phố 2, phường T, thị xã B, tỉnh Bình Dương; dân tộc: Thái; nghề nghiệp: công nhân; trình độ học vấn: 10/12; con ông Lường Văn H, sinh năm 1980 và bà Lò Thị Th, sinh năm 1982; bị cáo có 02 anh em, lớn là bị can, nhỏ sinh năm 2005; bị cáo chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ từ 12/8/2020 cho đến nay; bị cáo có mặt tại phiên tòa.
Người đại diện hợp pháp của bị cáo Lường Văn Q: Ông Lường Văn H, sinh năm 1980 và bà Lò Thị T, sinh năm 1982; cùng địa chỉ thường trú: Bản C, xã N, huyện M, tỉnh Điện Biên (cha mẹ ruột). Ông Q có mặt, bà H vắng mặt.
Người bào chữa cho bị cáo Lường Văn Q: Ông Nguyễn Tiến D – Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Bình Dương. Có mặt.
Người bào chữa cho bị cáo Bạc Cầm T: Ông Cao Ngọc L – Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Bình Dương. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào lúc 00 giờ 30 phút ngày 12/8/2020, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thị xã Bến Cát phối hợp Công an phường Tân Định tiến hành tuần tra đến đoạn đường nhựa không tên (lối vào xưởng gốm Minh Phương), cách đường Quốc lộ 13 khoảng 20 mét thuộc khu phố 2, phường Tân Định, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương thì thấy Bạc Cầm T và Lường Văn Q đang đi bộ trên đường. Khi thấy lực lượng Công an, T và Q liền bỏ chạy, lực lượng Công an kiểm tra phát hiện bên trong túi quần bên trái phía trước T đang mặc cất giấu 01 (một) bịch nylon miệng kéo dính chứa tinh thể màu trắng được nhét vào túi nylon được quấn bên ngoài gói thuốc lá hiệu Thăng Long. T và Q khai nhận bịch nylon chứa ma túy đá là do T, Q góp tiền với 02 đối tượng tên S và D (không rõ nhân thân, lai lịch) mua về sử dụng chung nên lực lượng Công an tiến hành niêm phong thu giữ vật chứng.
Quá trình điều tra, Bạc Cầm T và Lường Văn Q khai nhận: Khoảng 21 giờ ngày 11/8/2020, Q, T ngồi ăn cơm cùng 02 đối tượng tên S và D (không rõ nhân thân, lai lịch) ở khu nhà xưởng bỏ hoang cạnh công trình Unico Thăng Long thuộc khu phố 2, phường T, thị xã B. Khoảng 22 giờ cùng ngày, Q đi ra ngoài, còn lại S, D và T thống nhất với nhau mỗi người góp 100.000 đồng (một trăm nghìn đồng) mua ma túy đá về sử dụng chung. Do D không có tiền nên nói T cho D mượn 100.000 đồng (một trăm nghìn đồng), T đồng ý. Sau đó, T đi ra ngoài gặp Q rủ Q góp 100.000 đồng (một trăm nghìn đồng) mua ma túy sử dụng, Q đồng ý đưa tiền cho T. T cầm tổng cộng 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) đưa cho S, rồi S và T đi bộ để tìm mua ma túy. Khi đến trước ngân hàng Agribank chi nhánh Sở Sao thuộc khu phố 2, phường T, thị xã Bến Cát, S nói T đứng đợi tại đây để S đi mua ma túy một mình. T đứng đợi S khoảng 10 phút thì thấy Q và D đi bộ đến. T nói Q, D đi tìm xem S mua ma túy ở đâu. Q và D đi bộ đến khu vực ngã tư cổng công ty Deawoo trên đường Quốc lộ 13 thì gặp S. S đưa cho Q một bịch nylon miệng kéo dính chứa ma túy đá, Q lấy bịch ma túy nhét vào túi nylon được quấn bên ngoài bao thuốc lá hiệu Thăng Long và cất bao thuốc lá vào túi quần bên trái phía trước Q đang mặc, rồi Q, S và D quay lại chỗ T đứng đợi. Khi gặp T, Q đưa cho T bao thuốc lá hiệu Thăng Long có kẹp bịch ma túy bên ngoài, T cầm bao thuốc lá cất vào túi quần bên trái phía trước T đang mặc. Sau đó, T, S, D và Q đi bộ vào đoạn đường nhựa không tên (lối vào xưởng gốm Minh Phương), cách đường Quốc lộ 13 khoảng 20 mét thuộc khu phố 2, phường T, thị xã Bến Cát thì thấy lực lượng Công an nên cả 04 người bỏ chạy, T và Q bị bắt giữ, riêng S và D trốn thoát.
Theo Kết luận giám định số 512/MT-PC09 ngày 18/8/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, kết luận: Mẫu tinh thể gửi giám định ma túy có khối lượng/ trọng lượng 0,1033 gam, loại Methamphetamine. Vật mẫu sau giám định có khối lượng/ trọng lượng 0,0894 gam.
Tại bản Cáo trạng số 269/CT-VKSBC ngày 26/11/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương truy tố các bị cáo Bạc Cầm T và Lường Văn Q về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tại phiên toà, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương tham gia phiên toà phát biểu ý kiến: Giữ nguyên quyết định truy tố các bị cáo Bạc Cầm T và Lường Văn Q về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Đại diện Viện Kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm o khoản 1 Điều 52 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Bạc Cầm T từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.
Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58; Điều 91 và Điều 101 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Lường Văn Q từ 09 tháng đến 12 tháng tù.
Về xử lý vật chứng của vụ án: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đề nghị tịch thu tiêu hủy:
01 (một) bì thư dán kín số 512/MT-PC09 được niêm phong có hình dấu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương bên trong chứa 0,0894 gam Menthamphetamine;
-01 (một) gói thuốc lá hiệu Thăng Long.
Các bị cáo Bạc Cầm T và Lường Văn Q đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy.
Trong quá điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến về quyết định truy tố của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát và nội dung bản Cáo trạng số 269/CT-VKSBC ngày 26/11/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương. Các bị cáo không có ý kiến khiếu nại gì đối với Kết luận giám định số 512/MT-PC09 ngày 18/8/2020 của Phòng kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bình Dương.
Tại phiên tòa, các bị cáo không đưa ra chứng cứ, tài liệu và lập luận gì để đối đáp với Kiểm sát viên về nội dung luận tội của Kiểm sát viên.
Người bào chữa của bị cáo T trình bày: Không tranh luận về tội danh và khung hình phạt mà Viện Kiểm sát đã truy tố. Người bào chữa của bị cáo T cho rằng bị cáo T có nhân thân tốt, ngoài lần phạm tội này bị cáo luôn chấp hành tốt pháp luật, bị cáo là người dân tộc thiểu số nên trình độ nhận thức còn hạn chế. Người bào chữa của bị cáo T đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng mức hình phạt nhẹ nhất đối với bị cáo T để bị cáo T có cơ hội sớm đoàn tụ gia đình, tiếp tục học tập để trở thành công dân tốt.
Người bào chữa của bị cáo Q trình bày: Không tranh luận về tội danh và khung hình phạt mà Viện Kiểm sát đã truy tố. Người bào chữa của bị cáo Q cho rằng bị cáo Q có nhân thân tốt, chưa thành niên nên tâm lý chưa có sự nhận thức đầy đủ về pháp luật. Người bào chữa của bị cáo Q đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng mức hình phạt nhẹ nhất đối với bị cáo Q để bị cáo Q có cơ hội sớm đoàn tụ gia đình, tiếp tục học tập để trở thành công dân tốt.
Các bị cáo thống nhất trình bày của người bào chữa của mình và không trình bày bổ sung thêm vấn đề gì.
Người đại diện hợp pháp của bị cáo Q trình bày: Thống nhất phần trình bày người bào chữa của bị cáo Q và không trình bày bổ sung thêm vấn đề gì.
Lời nói sau cùng của các bị cáo trước khi Hội đồng xét xử nghị án: Bị cáo đã nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, các bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên toà, các bị cáo Bạc Cầm T và Lường Văn Q đã thành khẩn khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy như nội dung Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương truy tố. Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra cũng như các tài liệu, chứng cứ thu giữ trong vụ án, biên bản thu giữ vật chứng có trong vụ án. Hội đồng xét xử có căn cứ kết luận:
Vào lúc 00 giờ 30 phút ngày 12/8/2020 tại đoạn đường nhựa không tên, cách đường Quốc lộ 13 khoảng 20 mét thuộc khu phố 2, phường T, thị xã B, tỉnh Bình Dương, Bạc Cầm T rủ Lường Văn Q cùng nhau góp tiền mua một bịch ma túy loại Methamphetamine có khối lượng 0,1033 gam và cất giấu trong túi quần bên trái phía trước T đang mặc nhằm mục đích sử dụng thì bị lực lượng Công an bắt quả tang.
Căn cứ Kết luận giám định số 512/MT-PC09 ngày 18/8/2020 của Phòng kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bình Dương xác định: Mẫu tinh thể gửi giám định ma túy có khối lượng/ trọng lượng 0,1033 gam, loại Methamphetamine. Vật mẫu sau giám định có khối lượng/ trọng lượng 0,0894 gam. Các bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự. Hành vi mà các bị cáo Bạc Cầm T và Lường Văn Q đã thực hiện đủ yếu tố cấu thành tội “tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự sửa đổi, bổ sung 2017.
Hội đồng xét xử nhận định tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước đối với các chất ma túy. Về nhận thức, các bị cáo nhận thức hành vi của mình là vi phạm pháp luật, các bị cáo biết rõ ma tuý làm huỷ hoại sức khoẻ, làm mất khả năng lao động, học tập, làm cho thần kinh người nghiện bị tổn hại. Các bị cáo muốn đạt ảo giác nên đã thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Do vậy, Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát truy tố các bị cáo theo tội danh và điều khoản nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân các bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Về nhân thân: Các bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Q không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Bị cáo T xúi giục bị cáo Q là người dưới 18 tuổi phạm tội nên bị cáo T vi phạm tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm o khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình là người dân tộc thiểu số. Do đó, cần cho các bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Việc xử lý bị cáo Q phải bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội. Căn cứ vào độ tuổi, khả năng nhận thức của bị cáo Q về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm, Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng Điều 91 và Điều 101 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 khi xem xét quyết định hình phạt đối với bị cáo Q.
Xét tính chất và mức độ của hành vi phạm tội: Các bị cáo phạm tội với vai trò đồng phạm giản đơn. Bị cáo T khai nhận bị cáo là người khởi xướng, rủ rê lôi kéo bị cáo Q cùng thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Bị cáo Q biết rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn tham gia tàng trữ ma túy. Do đó, mức hình phạt áp dụng đối với bị cáo T sẽ cao hơn so với bị cáo Q.
Đối chiếu với những tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của các bị cáo, Hội đồng xét xử quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước là hình phạt tù có thời hạn, cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian không chỉ nhằm trừng trị các bị cáo mà còn giáo dục các bị cáo ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa các bị cáo phạm tội mới; đồng thời có tác dụng giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm. Do đó, ý kiến đề nghị của Kiểm sát viên về tội danh, điều khoản, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, mức hình phạt và các vấn đề khác đối với các bị cáo là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[3] Xét đề nghị của người bào chữa cho các bị cáo là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[4] Về xử lý vật chứng:
Đối với 01 (một) bì thư dán kín số 512/MT-PC09 được niêm phong có hình dấu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương bên trong chứa 0,0894 gam Menthamphetamine là vật chứng của vụ án cần tịch thu, tiêu hủy.
Đối với 01 (một) gói thuốc lá hiệu Thăng Long là vật chứng của vụ án, không có giá trị nên cần tịch thu, tiêu hủy.
[5] Đối với 02 đối tượng tên S và D (không rõ nhân thân, lai lịch) có hành vi góp tiền mua ma túy cùng với T, Q, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Bến Cát tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau.
[6] Về án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm o khoản 1 Điều 52 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017;
Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 và Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;
Căn cứ vào Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên bố bị cáo Bạc Cầm T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Xử phạt bị cáo Bạc Cầm T 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 12/8/2020.
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58; Điều 91 và Điều 101 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017;
Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 và Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;
Căn cứ vào Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên bố bị cáo Lường Văn Q phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Xử phạt bị cáo Lường Văn Q 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 12/8/2020.
Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy:
01 (một) bì thư dán kín số 512/MT-PC09 được niêm phong có hình dấu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương bên trong chứa 0,0894 gam Menthamphetamine;
01 (một) gói thuốc lá hiệu Thăng Long.
(Vật chứng được thể hiện tại Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 22/12/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Bến Cát giữa Công an thị xã Bến Cát và Chi cục Thi hành án dân thị xã Bến Cát) Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc các bị cáo Bạc Cầm T và Lường Văn Q, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Về quyền kháng cáo:
Các bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo, người bào chữa cho các bị cáo có mặt được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày Tòa tuyên án.
Người đại diện hợp pháp của bị cáo vắng mặt được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết công khai./.
Bản án 258/2020/HS-ST ngày 25/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 258/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Bến Cát - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/12/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về