Bản án 25/2021/HS-ST ngày 16/06/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 25/2021/HS-ST NGÀY 16/06/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 16 tháng 6 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 29/2021/TLST-HS ngày 31 tháng 5 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 30/2021/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 6 năm 2021, đối với bị cáo:

Nguyễn Văn U, sinh năm 1986; nơi sinh: huyện C, tỉnh An Giang;

Nơi cư trú: ấp H, xã K, huyện C, tỉnh An Giang;

Nghề nghiệp: Không;

Trình độ văn hoá (học vấn): 02/12;

Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không;

Quốc tịch: Việt Nam;

Con ông Nguyễn Văn T và bà Lê Thị H (đã chết); Vợ: Thạch Thị Ngọc S;

Con: Nguyễn Phi L;

Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: Từ nhỏ sống chung cha mẹ, đi học đến lớp 02 nghỉ đến khoảng năm 2015, sống cùng gia đình và làm thuê tại ấp H, xã K, huyện C, tỉnh An Giang. Từ khoảng 2015 đến khoảng năm 2019 làm thuê tại kênh 15 thuộc huyện CP, tỉnh An Giang. Từ năm 2019 đến nay, sinh sống tại ấp H, xã K, huyện C, tỉnh An Giang.

Bị tạm giam ngày 10/5/2021 đến nay, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Ông Triệu Văn L, sinh năm 1973; nơi cư trú: ấp H, xã K, huyện C, tỉnh An Giang; vắng mặt.

- Người làm chứng:

+ Bà Hồ Minh N, sinh năm 1987;

+ Ông Nguyễn Văn N, sinh năm 1972;

+ Ông Nguyễn Văn N, sinh năm 1980;

+ Ông Triệu Văn L, sinh năm 1965.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 20 giờ 00 ngày 10/5/2021, sau khi uống rượu tại chồi lá thuộc ấp H, xã K, huyện C, tỉnh An Giang Nguyễn Văn U đã nảy sinh ý định trộm tài sản của người khác để có ti n tiêu sài cá nhân. Ngay sau đó, Nguyễn Văn U đã điều khiển xe đạp quanh khu vực thuộc ấp H, xã K, huyện C, tỉnh An Giang, khi đi đến khu vực nhà ông Triệu Văn L phát hiện nhà L đóng cửa, trước sân nhà có trồng cây mai vàng (cao khoảng 145cm, bề hoành tán lá rộng 108cm, bề hoành gốc lớn nhất 126cm), nên U đã dựng xe vào hàng rào sau nhà L, đi vào sân nhà quan sát xung quanh không có người, U dùng hai tay bứng cây mai vàng lên khỏi mặt đất. Sau đó U vác cây mai vàng trên vai trái ra xe, rồi điều khiển chiếc xe đạp chở cây mai đi được khoảng 300 mét thì bị Nguyễn Văn N, Nguyễn Văn N (cùng xóm với L) phát hiện, bắt giữ U báo Công an xã K lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Tại Quyết định truy tố số 02/QĐ-VKS ngày 31 tháng 5 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn U về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Kiểm sát viên trình bày lời luận tội: Giữ nguyên Quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Văn U về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo từ 06 tháng đến 09 tháng tù về tội trộm cắp tài sản; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Về xử lý vật chứng căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự khoản 2, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự đề nghị tịch thu sung quỹ 01 xe đạp.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận đã thực hiện hành vi phạm tội như nội dung Quyết định truy tố, không tranh luận với lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Bị cáo Nguyễn Văn U có nơi cư trú, lai lịch rõ ràng; đã thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản là 01 cây mai vàng cao 145cm, bề hoành đế 27cm, bề hoành tán lá rộng nhất 108cm, bề hoành gốc lớn nhất 126cm, trị giá 3.000.000đồng, bị cáo phạm tội có chứng cứ rõ ràng, cơ quan công an lập biên bản bắt người phạm tội quả tang; tội phạm đã thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng nên cơ quan tiến hành tố tụng quyết định áp dụng thủ tục rút gọn là đúng với quy định tại Điều 456 và Điều 457 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[3] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận đã thực hiện chiếm đoạt tài sản người bị hại. Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra, truy tố; phù hợp với lời khai của bị hại và những người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác được lưu trong hồ sơ vụ án. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Bị cáo đã thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản là 01 cây mai vàng cao 145cm, bề hoành đế 27cm, bề hoành tán lá rộng nhất 108cm, bề hoành gốc lớn nhất 126cm, trị giá 3.000.000đồng của người bị hại nên hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” là hoàn toàn đúng người, đúng tội và phù hợp với quy định của pháp luật.

[4] V tính chất, mức độ nghiêm trọng v hành vi của bị cáo nhận thấy: Quyền sở hữu là một trong những quyền cơ bản của mỗi công dân được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Để sở hữu được tài sản, người lao động phải trải qua quá trình lao động vất vả mới tạo lập được. Cho nên, những ai xâm phạm đến quyền sở hữu của người khác sẽ bị áp dụng chế tài nghiêm khắc là hình phạt. Bị cáo đang ở độ tuổi lao động. Lẽ ra, phải rèn luyện bản thân thành một công dân có ích, tích cực lao động để tạo lập tài sản chính đáng cho bản thân nhưng chỉ vì hám lợi, lười lao động, muốn nhanh chóng có được tài sản mà không phải tốn công sức lao động nhiều nên bị cáo đã thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến quyền sở hữu của người khác, xâm phạm trật tự quản lý của Nhà nước mà còn gây mất trật tự trị an tại địa phương; gây tâm lí hoang mang trong quần chúng nhân dân, ảnh hưởng đến cuộc sống, tâm lí của người dân, gây bức xúc trong quần chúng nhân dân. Do đó, cần có hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để đảm bảo tính răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[5.1] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay đã xác định được: Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; đã tỏ rõ thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm i, s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự nên có xem xét cho bị cáo khi quyết định hình phạt;

[5.2] Về tình tiết tăng nặng: Không.

[6] Về hình phạt bổ sung, do bị cáo có thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung.

[7 Về vật chứng: 01 cây mai vàng cơ quan điều tra xử lý trả lại cho người bị hại Triệu Văn L; đối với 01 xe đạp của Nguyễn Văn U là phương tiện dùng vào việc phạm tội, là vật còn giá trị nên tịch thu sung quỹ.

[8] Về dân sự: Người bị hại Triệu Văn L đã nhận nhận lại tài sản bị mất là 01 cây mai vàng, ông Lém không yêu cầu v dân sự nên không xét đến.

[9 Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1 khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn U phạm tội “Trộm cắp tài sản”; Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn U 07 (Bảy) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt của bị cáo được tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam ngày 10/5/2021 (Ngày mười tháng năm năm hai nghìn không trăm hai mươi mốt).

2. Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Căn cứ điểm a, khoản 1, Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm a khoản 2, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Tịch thu sung quỹ: 01 xe đạp (Hiện vật chứng do Chi cục thi hành án dân sự huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang quản lý theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 16/6/2021).

3. Về án phí: Căn cứ các Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Buộc bị cáo Nguyễn Văn U phải chịu 200.000đồng (Bằng chữ: Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ các Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

203
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 25/2021/HS-ST ngày 16/06/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:25/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về