Bản án 25/2020/HS-ST ngày 30/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MS - TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 25/2020/HS-ST NGÀY 30/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện MS, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 23/2020/HSST ngày 19 tháng 11 năm 2020 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 23/2020/QĐXXST- HS ngày 19 tháng 11 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Tòng Văn Q. Tên gọi khác: Không. Sinh ngày 19.5.1987, tại MS, Sơn La. Nơi đăng ký HKTT và nơi ở: Bản 428, xã HL, huyện MS, tỉnh Sơn La. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trình độ học vấn: 10/12 Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Thái. Tôn giáo: Không. Chức vụ, đoàn thể, đảng phái: Không. Con ông: Không xác định và bà Tòng Thị T, sinh năm 1964, nghề nghiệp: Trồng trọt, hiện đang cư trú tại bản 428, xã HL, MS, Sơn La.

Bị cáo có vợ là Lò Thị K, sinh năm 1987. Bị cáo có 02 con 14 tuổi và 8 tuổi. Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 30/8/2020 cho đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

2. Cà Văn H. Tên gọi khác: Không. Sinh ngày 01.01.1985, tại huyện Q Nhai, tỉnh Sơn La. Nơi đăng ký HKTT và nơi ở: Bản NS, xã HL, huyện MS, tỉnh Sơn La. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trình độ học vấn: 04/12. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Thái. Tôn giáo: Không. Chức vụ, đoàn thể, đảng phái: Không. Con ông:

 Cà Văn Y, sinh năm 1958 và bà Lò Thị T, sinh năm 1960. Bị cáo có vợ là Hoàng Thị P, sinh năm 1986, bị cáo có 03 con, con lớn nhất 4 tuổi, con nhỏ nhất 01 tuổi.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 30/8/2020 cho đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị cáo Cà Văn H: Bà Trần Bích L – Luật sư cộng tác viên của Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Sơn La.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Tòng Thị Kh sinh năm 1987. Địa chỉ: Bản 428, xã HL, huyện MS, tỉnh Sơn La. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Sáng ngày 29.8.2020, Tòng Văn Q cùng Lò Văn V, trú tại bản NB, xã HL, huyện MS đi đến thị trấn IO, huyện ML, tỉnh Sơn la để làm thuê. Đến khoảng 18 giờ cùng ngày, Q và V đi về nhà V ở bản NB xã HL. Sau đó, do không có xe về nhà nên Q gọi điện cho Cà Văn H nhờ đến đón. H điều khiển xe mô tô hiệu NEWWEI 3, biển kiểm soát 26H8- 6369 đi đến nhà Việt rồi cùng ăn cơm với Q và Việt. Lúc này Q nảy sinh ý định mua hồng phiến để sử dụng nên đã đi ra ngoài sân nhà Việt gọi điện thoại cho Trần Ngọc Đ, trú tại bản 428, xã HL, huyện MS đặt vấn đề hỏi mua 03 viên hồng phiến với giá 200.000VNĐ, Điệp nói có 03 viên hồng phiến bán giá 300.000VNĐ, Q hẹn sẽ gọi điện lại. Sau đó, Q quay vào tiếp tục ăn cơm, do biết H là người sử dụng ma túy nên đã rủ H góp 100.000VNĐ mua hồng phiến, H đồng ý. Đến 22 giờ 30 phút cùng ngày, H điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 26H8- 6369 chở Q đi mua hồng phiến. Trên đường đi Q gọi điện thoại cho Điệp để mua hồng phiến thì Điệp hẹn Q đến khu rừng thuộc bản NB, xã HL. Q chỉ đường đi cho H đi đến điểm hẹn. Đến nơi, Q bảo H dừng xe ven đường rồi Q đi bộ vào bìa rừng phía bên phải cách khoảng 04 m thì gặp Điệp. Q lấy 200.000VNĐ đưa cho Điệp rồi quay lại bảo Q góp tiền mua hồng phiến, H lấy 100.000VNĐ đi gặp và đưa cho người bán ma túy, do trời tối H không nhìn rõ người đưa hồng phiến, rồi quay ra vị trí mô tô chờ. Còn Điệp đưa cho Q 01 gói nilon màu trắng bên trong chứa 03 viên hồng phiến, Q cầm gói hồng phiến quay lại bảo H điều khiển xe đi về hướng thị trấn HL, huyện MS, mục đích để tìm nơi sử dụng hồng phiến. Khi đi đến khu vực ngã ba rẽ vào đường đi bản NS, xã HL thuộc tiểu khu 1, thị trấn HL thì Q xuống xe cất giấu gói hồng phiến vào túi quần bên trái rồi đi vào ven đường, mục đích tìm ống hút để làm điếu tự chế sử dụng, còn H điều khiển xe đi về hướng bản Nà Sẳng cách đó khoảng 16 mét thì dừng lại chờ Q. Khi Q đang tìm ống hút thì bị Tổ công tác Công an thị trấn HL, huyện MS phát hiện kiểm tra, Q đã dùng tay trái lấy gói hồng phiến từ túi quần bên trái ra ném xuống lề đường cách vị trí Q đứng 3 mét, thì bị tổ công tác phát hiện kiểm tra bên trong có 03 viên hồng phiến. Tổ công tác lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Q, thu giữ vật chứng gồm: 01 gói nilon bên trong có chứa 03 viên nén màu hồng. Do H chưa thừa nhận hành vi cùng góp tiền mua ma túy cùng với Q, Công an thị trấn đã triệu tập H đến trụ sở Công an làm việc, tại đây H đã khai nhận hành vi phạm tội cùng góp tiền mua ma túy với Q.

Ngày 30.8.2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện MS phối hợp cùng Phòng Kỹ thuật hình sự công an tỉnh Sơn La tiến hành bóc mở niêm phong, cân tịnh xác định khối lượng 03 viên nén màu hồng thu giữ khi bắt quả tang Tòng Văn Q, Cà Văn H có khối lượng 0,29 gam, trích rút toàn bộ làm mẫu giám định ký hiệu M.

Ngày 01.9.2020, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La ra bản kết luận giám định số 1403/KLMT, kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu M là ma tuý. Loại Methamphetamine. Khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,29gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ được là 0,29 gam, loại methamphetamine”.

Tại phiên toà, các bị cáo Tòng Văn Q, Cà Văn H đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt cho các bị cáo.

Bản cáo trạng số: 120/CT-VKS ngày 19/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện MS đã truy tố các bị cáo Tòng Văn Q, Cà Văn H về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Sau khi kết thúc phần thẩm vấn, đại diện Viện kiểm sát trình bày lời luận tội đối với bị cáo và đã giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo theo cáo trạng và đề nghị hội đồng xét xử:

- Tuyên bố các bị cáo Tòng Văn Q, Cà Văn H phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 58, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Tòng Văn Q từ 14 (Mười bốn) đến 18 (Mười tám) tháng tù. Xử phạt bị cáo Cà Văn H từ 12 (Mười hai) tháng đến 16 (Mười sáu) tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

 Về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự, khoản 2, 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự :

Tịch thu tiêu hủy 01 vỏ bao bì thư bên trong chứa 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu, mảnh nilon màu trắng, màu xanh và mảnh giấy bạc gói ma túy ban đầu; 01 phong bì thư vên trong chứa 01 phong bì niêm phong mẫu gửi giám định và 0,25gam Methamphetamine.

Trả lại cho Tòng Thị Kh 01 chiếc xe máy nhãn hiệu NEWEI3, vỏ sơn màu đỏ, mang biển kiểm soát 26H8- 6369:

Trả lại cho bị cáo Cà Văn H 01 điện thoại hiệu MEIZU, vỏ màu đen, màn hình cảm ứng, kèm theo 01 sim điện thoại:

Tịch thu sung công quỹ 01 điện thoại hiệu SAMSUNG Galaxy J4, vỏ màu đen, màn hình cảm ứng, kèm theo 02 sim điện thoại thu của Tòng Văn Q.

Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Cà Văn H. Buộc bị cáo Tòng Văn Q phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 VNĐ.

Bị cáo Tòng Văn Q, Cà Văn H: Nhất trí với nội dung luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Người bào chữa cho bị cáo Cà Văn H: Luật sư Trần Bích L nhất trí với quan điểm của Viện kiểm sát về tội danh, xử lý vật chứng, phần án phí. Tuy nhiên cần áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS vì bị cáo phạm tội lần đầu, thuộc diện hộ cận nghèo. Bị cáo là lao động chính trong gia đình có các con còn nhỏ. Trong vụ án, bị cáo có vai trò là người giúp sức không phải người khởi xướng, chủ mưu.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện MS, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện MS, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác trong quá trình điều tra, truy tố, và tại phiên tòa hôm nay không có người nào có ý kiến hoặc khiến nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét hành vi của các bị cáo thì thấy rằng: Tại phiên tòa hôm nay các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của các bị cáo đã thực hiện. Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 22 giờ 50 phút ngày 29.8.2020 của Công an huyện MS; biên bản mở niêm phong, cân tịnh, trích rút mẫu giám định và niêm phong lại vật chứng; phù hợp với kết luận giám định số 1403/KLMT ngày 01.9.2020 của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Sơn La; phù hợp với biên bản lấy lời khai, biên bản hỏi cung đối với các bị can và phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Qua tranh luận không có gì mâu thuẫn, tại phiên tòa không phát sinh tình tiết, chứng cứ mới.

Như vậy, có đủ căn cứ để kết luận: Ngày 29.8.2020 bị cáo Tòng Văn Q đã rủ Cà Văn H cùng nhau góp tiền mua 0,29 gam Methamphetamine để sử dụng. Sau khi mua được ma túy, Q là người cất giấu ma túy, H là người điều khiển phương tiện chở Q đến khu vực tiểu khu 1, thị trấn HL, huyện MS thì bị Tổ công tác Công an thị trấn HL, huyện MS phát hiện bắt quả tang thu giữ toàn bộ vật chứng.

Như vậy, có đầy đủ cơ sở kết luận các bị cáo đã phạm vào tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Viện kiểm sát truy tố các bị cáo tại bản Cáo trạng số: 120/CT- VKSMS ngày 19.11.2020 về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là chính xác, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan sai cho các bị cáo.

[3] Xét thấy tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm, Hội đồng xét xử thấy rằng: Các bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm về hình sự, nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng các bị cáo đã bất chấp quy định của pháp luật để phạm tội với lỗi cố ý. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm vào chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về ma túy, gây mất trật tự trị an xã hội. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm, vì lẽ đó khi lượng hình cần phải áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với hành vi phạm tội do bị cáo đã thực hiện.

[4] Xét về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo: Các bị cáo đều chưa có tiền án, tiền sự, trong vụ án các bị cáo không tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Mặc dù khi bắt quả tang bị cáo H không thừa nhận hành vi phạm tội, bị cáo Q đã ném số ma túy bị cáo đã mua, tuy nhiên trong quá trình điều tra và tại phiên toà ngày sơ thẩm, bị cáo đều có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự sẽ được Hội đồng xét xử xem xét áp dụng đối với các bị cáo khi lượng hình.

[5] Xét vai trò của từng bị cáo trong vụ án, Hội đồng xét xử thấy rằng: Đây là vụ án có đồng phạm ở thể giản đơn. Tòng Văn Q là người khởi xướng, rủ Cà Văn H cùng góp tiền mua ma túy, là người trực tiếp mua ma túy, nên bị cáo giữ vai trò chính trong vụ án. Cà Văn H sau khi được Q rủ mua ma túy đã đồng tình ngay và cùng góp 100.000VND mua ma túy, là người điều khiển xe chở Q mua ma túy, nên bị cáo là đồng phạm trong vụ án.

Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định tương xứng với tính chất, vai trò của từng bị cáo trong vụ án mới có tác dụng cải tạo giáo dục đối với các bị cáo, đồng thời mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[6] Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo đều không có thu nhập ổn định, không có tài sản riêng, gia đình đều thuộc hộ nghèo. Do vậy, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[7] Về vật chứng của vụ án: Đối với toàn bộ vật chứng đã thu giữ của các bị cáo, áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; áp dụng điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự giải quyết như sau:

Đối với 01 vỏ bao bì thư bên trong chứa 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu, mảnh nilon màu trắng, màu xanh và mảnh giấy bạc gói ma túy ban đầu; 01 phong bì thư vên trong chứa 01 phong bì niêm phong mẫu gửi giám định và 0,25gam Methamphetamine. Do là vật nhà nước độc quyền quản lý và cấm lưu hành, không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 chiếc xe máy nhãn hiệu NEWEI3, vỏ sơn màu đỏ, mang biển kiểm soát 26H8- 6369 là tài sản chung của chị Tòng Thị Kh và bị cáo Tòng Văn Q. Việc các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội chị Kh không biết và chị Kh đề nghị xin lại tài sản trên để quản lý sử dụng nên cần trả lại cho chị Kh tài sản trên.

Đối với 01 điện thoại hiệu MEIZU, vỏ màu đen, màn hình cảm ứng, kèm theo 01 sim điện thoại thu giữ của bị cáo Cà Văn H. H không sử dụng vào việc phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo tài sản trên.

Đối với 01 điện thoại hiệu SAMSUNG Galaxy J4, vỏ màu đen, màn hình cảm ứng, kèm theo 02 sim điện thoại thu của Tòng Văn Q. Quá trình điều tra xác định là tài sản của bị cáo sử dụng để liên lạc với Trần Ngọc Đ để mua ma túy nên cần tịch thu sung công quỹ nhà nước.

 [8] Về nguồn gốc chất ma tuý: Bị cáo Tòng Văn Q khai mua của Trần Ngọc Đ, trú tại xã HL, huyện MS, tỉnh Sơn La. Cà Văn H là người đi cùng nhưng không xác định được người bán ma túy cho Q do trời tối. Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã xác minh, triệu tập Trần Ngọc Đ nhưng quá trình xác minh tại chính quyền địa phương xác định không có mặt Trần Ngọc Đ tại nơi cư trú, gia đình và chính quyền địa phương không biết Đ đang ở đâu, do đó cần kiến nghị với Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra đối với Trần Ngọc Đ theo quy định của pháp luật.

[9] Về án phí: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Cà Văn H do thuộc hộ cận nghèo. Bị cáo Tòng Văn Q phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Tòng Văn Q, Cà Văn H phạm tội: "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".

1. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 58, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Tòng Văn Q 14 (Mười bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 30.8.2020).

Xử phạt bị cáo Cà Văn H 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 30.8.2020).

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

2. Về vật chứng của vụ án: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự, điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư bên trong chứa 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu, mảnh nilon màu trắng, màu xanh và mảnh giấy bạc gói ma túy ban đầu; 01 phong bì thư bên trong chứa 01 phong bì niêm phong mẫu gửi giám định và 0,25gam Methamphetamine.

Trả lại cho chị Tòng Thị Kh 01 chiếc xe máy nhãn hiệu NEWEI3, vỏ sơn màu đỏ, gắn biển kiểm soát 26H8- 6369; số khung 61003093; số máy MHA 002907, xe đã qua sử dụng cũ và bị hư hỏng nhiều chỗ.

Trả lại cho bị cáo Cà Văn H 01 điện thoại hiệu MEIZU, vỏ màu đen, màn hình cảm ứng, kèm theo 01 sim điện thoại, điện thoại đã qua sử dụng cũ.

Tịch thu sung công quỹ 01 điện thoại hiệu SAMSUNG Galaxy J4, vỏ màu đen, màn hình cảm ứng, kèm theo 02 sim điện thoại thu của bị cáo Tòng Văn Q.

 Về án phí: Áp dụng Điều 135, 136 Bộ luật tố tụng hình sự, điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 21, 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Cà Văn H. Buộc bị cáo Tòng Văn Q phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 VNĐ (Hai trăm nghìn đồng chẵn).

Báo cho các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan biết được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

214
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 25/2020/HS-ST ngày 30/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:25/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mai Sơn - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về