Bản án 25/2020/HS-ST ngày 29/04/2020 về tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HẢI CHÂU - THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 25/2020/HS-ST NGÀY 29/04/2020 VỀ TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 4 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 28/2020/TLST-HS ngày 31 tháng 3 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 21/2020/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 4 năm 2020 đối với bị cáo:

PHM TRẦN C (tên gọi khác: Dệ); Giới tính: Nam; Sinh ngày: 15 tháng 8 năm 1993 tại Đà Nẵng; CMND số: 201672659 cấp ngày 05/5/2015 tại Đà Nẵng; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Quê quán: huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa thiên Huế; Nơi cư trú: K211A/12B đường Đ, phường T, quận H, thành phố Đà Nẵng; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Đầu bếp; Con ông Phạm Văn T (sinh năm 1961 còn sống) và bà Trần Thị Bích Th (sinh năm 1963 còn sống); Gia đình có 03 người con C là con thứ ba; Tiền án: Không; Tiền sự: Ngày 01/10/2019, bị Công an phường T, quận H thành phố Đ xử phạt vi phạm hành chính vì có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam từ ngày 26/12/2019 đến nay tại Trại tạm giam Công an thành phố Đà Nẵng. Có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

- anh Đoàn Văn T, sinh năm 1990, trú tại: Số 216/22 đường Nguyễn Đình T, phường A, quận T, thành phố Đ. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ ngày 26/12/2019, tại trước số nhà 68 đường Trưng Nhị, phường Hòa Thuận Tây, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng phát hiện bắt quả tang Phạm Trần C đang tàng trữ trái phép chất ma túy.

Tang vật tạm giữ của Chỉnh gồm:

- 01 gói thuốc lá White Horse bên trong có một gói ni lông chứa tinh thể rắn màu trắng (được niêm phong ký hiệu B)

- 01chiếc điện thoại di dộng có dòng chữ Galaxy, màu đen số imel: 356380080248236 gắn sim số 0935.037.933.

- 01 xe môtô hiệu Nouvo RC màu đỏ đen BKS 43Y1-8713, số khung 257314, số máy 257319.

- Số tiền 350.000 đồng.

Đến 22 giờ 20 cùng ngày, khám xét nơi ở của Phạm Trần C tại K211A/12B đường Đ, phường T, quận H, thành phố Đ có thu giữ thêm 15 bao ni lông chưa qua sử dụng.

* Theo Kết luận giám định số: 18/GĐ-MT ngày 03/01/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an TP Đà Nẵng, kết luận: Các tinh thể rắn màu trắng trong bì niêm phong ký hiệu B gửi giám định là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng tinh thể mẫu B là 3,038 gam; Hoàn trả lại đối tượng sau giám định gồm: 2,559 gam tinh thể B và toàn bộ vỏ bao gói.

* Quá trình điều tra, Phạm Trần C khai nhận: Vào ngày 19/12/2019, do có nhu cầu sử dụng ma túy, Phạm Trần C mua ma túy của một thanh niên không rõ nhân thân, lai lịch ở thành phố Hồ Chí Minh với giá 3.000.000 đồng thông qua người tên Ty (quen biết ngoài xã hội, không rõ nhân thân, lai lịch). Sau khi nhận được ma túy, C cất giấu để sử dụng, đến khoảng 19 giờ 30 phút ngày 26/12/2019, C mang số ma túy còn lại để vào bên trong gói thuốc lá White Horse sau đó đặt vào hộc trước bên phải của xe môtô hiệu Nouvo RC màu đỏ đen BKS 43Y1- 8713. C điều khiển xe đến nhà người bạn tên Ku (quen biết ngoài xã hội, không rõ nhân thân, lai lịch) để cùng sử dụng ma túy. Khi đi đến trước số nhà 68 đường Trưng Nhị, phường Hòa Thuận Tây, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng thì bị Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng phát hiện và bắt quả tang như nêu trên.

Quá trình điều tra, Phạm Trần C đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai của C phù hợp với vật chứng thu giữ và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Với nội dung trên, tại bản cáo trạng số 33/CT-VKS ngày 30/3/2020 Viện kiểm sát nhân dân quận Hải Châu, TP Đà Nẵng đã truy tố Phạm Trần C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, trên cơ sở việc hỏi và tranh luận giữa những người tham gia tố tụng công khai, dân chủ và không bị hạn chế,

- Bị cáo Phạm Trần C thừa nhận hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố là đúng người, không oan.

- Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt: Bị cáo Phạm Trần C từ 18-24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo thấy được lỗi lầm của mình và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Hải Châu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Hải Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có người nào ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy: Bị cáo Phạm Trần C đã thừa nhận khoảng 20 giờ ngày 26/12/2019, tại trước số nhà 68 đường Trưng Nhị, phường Hòa Thuận Tây, quận Hải Châu, Đà Nẵng Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an quận Hải Châu TP Đà Nẵng phát hiện bắt quả tang Phạm Trần C đang tàng trữ trái phép 3,038 gam ma túy loại Methamphetamine để sử dụng. Hành vi của bị cáo Phạm Trần C đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

[3] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy bị cáo là người thành niên, đầy đủ nhận thức, thừa biết ma túy gây ra nhiều tác hại, sử dụng ma túy sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến hệ thần kinh, tạo ra ảo giác và là tác nhân gây ra các tệ nạn xã hội nên được nhà nước quản lý nghiêm. Bị cáo đã từng bị lực lượng chức năng nhắc nhỡ về việc sử dụng trái phép chất ma túy nhưng bị cáo vẫn bất chấp lao vào con đường phạm tội. Đối với loại tội phạm này cần phải được nghiêm trị nên cần cách ly bị cáo một thời gian để giáo dục răn đe bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[4] Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ thì thấy: Về nhân thân, bị cáo Phạm Trần C đã từng bị xử phạt vi phạm hành chính vì hành vi sử dụng trái phép chất ma túy nhưng chưa có tiền án. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, biết ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ thuộc điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo khi lượng hình.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, …tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”, do đó, bị cáo có thể áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo làm lao động phổ thông, thu nhập không ổn định, điều kiện kinh tế còn khó khăn, không có tài sản. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Đối với người thanh niên bán ma túy, Ty và Ku liên quan đến hành vi tàng trữ ma túy của C, hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Hải Châu đang tiếp tục điều tra làm rõ xử lý sau là có cơ sở.

[7] Từ những nhận định trên, xét thấy Viện kiểm sát nhân dân quận Hải Châu đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo từ 18-24 tháng tù giam là nhẹ, chưa tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, bởi vì khối lượng ma túy bị cáo tàng trữ là 3,038gam là tương đối nhiều so với khối lượng khởi điểm bị truy tố, đối với loại tội phạm này cần phải xử nghiêm.

[8] Về xử lý vật chứng:

[8.1] Đối với khối lượng ma túy hoàn trả lại sau giám định là 2,559 gam và toàn bộ bao gói mẫu là vật cấm tàng trữ, lưu hành nên căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu và tiêu hủy.

[8.2] Đối với xe môtô hiệu Nouvo RC màu đỏ đen BKS 43Y1-8713, số khung 257314, số máy 257319 chủ sở hữu là anh Đoàn Văn T, sinh năm 1990, trú tại: Số 216/22 đường Nguyễn Đình T, Đà Nẵng là bạn của Phạm Trần C. Vào ngày 26/12/2019, C mượn xe của anh T để đi công việc, anh T không biết C dùng xe để cất giấu tàng trữ ma túy. Do vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Hải Châu TP Đà Nẵng không để cập xử lý đối với anh T và đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại xe cho Đoàn Văn T, căn cứ điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự việc trả xe cho anh T là có cơ sở.

[8.3] Đối với chiếc điện thoại di dộng có dòng chữ Galaxy, màu đen số imel: 356380080248236 gắn sim số 0935.037.933 đây là điện thoại C dùng để liên lạc cá nhân và mua ma túy để sử dụng liên quan đến việc phạm tội nên căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu, nộp ngân sách nhà nước.

[8.4] Đối với số tiền 350.000 đồng thu giữ Phạm Trần C không liên quan đến hành vi phạm tội nên căn cứ điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự trả lại cho các bị cáo.

[8.5] Đối với 15 bao ni lông chưa qua sử dụng, số bao này C dùng để đựng đồ vật nên nên căn cứ điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự trả lại cho các bị cáo (Toàn bộ vật chứng nêu trên được lưu giữ tại chi cục Thi hành án quận hải Châu theo Quyết định chuyển vật chứng số 23/QĐ-VKS ngày 30/3/2020)

[9] Về án phí: Áp dụng khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Phạm Trần C phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Phạm Trần C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. 

Xử phạt: Bị cáo Phạm Trần C 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 26 tháng 12 năm 2019.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự

- Tịch thu và tiêu hủy 2,559 gam ma túy hoàn trả lại sau giám định và toàn bộ bao gói mẫu.

- Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước: 01 chiếc điện thoại di dộng có dòng chữ Galaxy, màu đen số imel: 356380080248236 gắn sim số 0935.037.933.

- Trả lại cho Phạm Trần C: số tiền 350.000 đồng và 15 bao ni lông chưa qua sử dụng.

(Toàn bộ vật chứng nêu trên được lưu giữ tại chi cục Thi hành án quận hải Châu theo Quyết định chuyển vật chứng số 23/QĐ-VKS ngày 30/3/2020)

3. Về án phí: Áp dụng khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Phạm Trần C phải chịu 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người tham gia tố tụng vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc tống đạt hợp lệ bản án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

253
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 25/2020/HS-ST ngày 29/04/2020 về tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:25/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hải Châu - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về