Bản án 25/2020/HS-ST ngày 28/04/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LONG KHÁNH, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 25/2020/HS-ST NGÀY 28/04/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 4 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Long Khánh, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 08/2020/HS-ST ngày 15 tháng 01 năm 2020, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 28/2020/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 02 năm 2020, đối với bị cáo:

Lê Khắc T(tên gọi khác Nguyễn Thiện L), sinh năm 1972, tại Quảng Trị; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ 13, ấp N, xã B, huyện T, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: Bán vé số; Trình độ văn hoá (học vấn) 00/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Khắc K, không rõ năm sinh (Chết) và bà Nguyễn Thị H, không rõ năm sinh (chết); có vợ là Võ Thị T, không rõ nhân thân, lai lịch. Bị cáo có 01 con tên Lê Khắc T, sinh năm 2002; Tiền sự: không.

Tiền án: Năm 2017, bị Tòa án nhân dân huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai xử phạt 06 tháng tù về tội ”Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong ngày 31/01/2018.

Nhân thân: Năm 1995, bị Tòa án nhân dân huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai xử phạt 04 tháng tù về tội ”Trộm cắp tài sản”. Năm 2014, bị Tòa án nhân dân huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai xử phạt 08 tháng cải tạo không giam giữ về tội ”Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong ngày 07/7/2014.

Bị can bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 16/10/2019 đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Chị Nguyễn Thị Thúy L, sinh năm 1983. Nơi cư trú: 24 tổ 1, khu phố P, phường X, thành phố K, tỉnh Đồng Nai. Có đơn xin vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Sáng ngày 03/6/2019, Lê Khắc T (Nguyễn Thiện L) điều khiển xe máy biển số 60V6-2531 đến bán vé số tại chợ A, thuộc khu phố T, phường X, thành phố K, đến 08 giờ cùng ngày, T chuẩn bị ra về thì phát hiện chị Nguyễn Thị Thúy L, sinh năm 1983, ngụ tại khu phố P, phường X, thành phố K dừng xe máy hiệu Honda Vision, biển số 60B2-630.42, bên trong cốp xe có 01 chiếc ví da màu đen nên Tnảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản. Khi chị L đi bộ vào chợ để mua đồ thì T dừng xe mô tô của mình gần với xe của chị L và đưa tay vào cốp xe móc lấy 01 ví da màu đen rồi giấu vào trong áo khoác và chạy thoát. Trên đường về T kiểm tra trong ví da có số tiền 4.600.000 đồng và đã tiêu xài cá nhân hết. Sau khi về đến nhà chị L bị phát hiện mất số tài sản nói trên nên đã trình báo cơ quan Công an.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Long Khánh, Lê Khắc T đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Bị cáo T đã hoàn trả số tiền 4.600.000 đồng cho chị L, chị L đã làm đơn bãi nại xin miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo T.

Tại bản cáo trạng số: 08/CT-VKS-LK ngày 13/01/2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Khánh đã truy tố bị cáo Lê Khắc T (tên gọi khác Nguyễn Thiện L) về tội: “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành Long Khánh, tỉnh Đồng Nai giữ nguyên cáo trạng truy tố bị cáo về tội danh và điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo Lê Khắc T(tên gọi khác Nguyễn Thiện L) phạm tội “Trộm cắp tài sản” và đề nghị xử phạt bị cáo T từ 08 (tám) tháng đến 01 (một) năm tù.

Về trách nhiệm dân sự: Chị Nguyễn Thị Thúy L đã được bị cáo hoàn trả đủ số tiền 4.600.000đ và không có yêu cầu bồi thường gì thêm, nên không xem xét giải quyết.

Về vật chứng: Đã giải quyết xong nên không xem xét.

Đi với xe mô tô biển số 60V6-2531 là tài sản của bị cáo, bị cáo đã làm mất không thu hồi lại được nên không xem xét.

Tại phiên tòa cũng như tại cơ quan điều tra bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng đã truy tố. Trước khi Hội đồng xét xử nghị án, bị cáo nói sau cùng: Bị cáo thấy được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

1 Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Long Khánh, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, những người tham gia tố tụng khác khẳng định khai báo tự nguyện, không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh và điều luật áp dụng: Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội do mình thực hiện như nội dung bản Cáo trạng đã nêu, lời khai nhận tội này phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của những người tham gia tố tụng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện:

Sáng ngày 03/6/2019, tại chợ A, thuộc khu phố T, phường X, thành phố K, bị cáo Lê Khắc T (Nguyễn Thiện L) đã lén lút thực hiện hành vi trộm cắp tài sản là số tiền 4.600.000 đồng của chị Nguyễn Thị Thúy L, sinh năm 1983, ngụ tại khu phố P, phường X, thành phố K. Do đó, đủ cơ sở để kết luận bị cáo Lê Khắc T phạm tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[3] Đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội:

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, tài sản hợp pháp được pháp luật bảo vệ. Bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Bản thân bị cáo là người đã trưởng thành, lười lao động, nhưng muốn được hưởng thụ thành quả lao động của người khác. Bị cáo đã 03 lần bị xử lý hình sự về hành vi “trộm cắp tài sản”, nhưng vẫn không sửa chữa được sai lầm của mình mà tiếp tục thực hiện hành vi “trộm cắp tài sản”, điều đó thể hiện sự coi thường pháp luật của bị cáo. Do đó, cần có mức án đủ nghiêm tương xứng với tính chất, mức độ hậu quả hành vi của bị cáo gây ra, nhằm giáo dục bị cáo trở thành công dân sống có ích cho xã hội, biết tuân thủ pháp luật.

4 Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Bị cáo có 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Năm 2017, bị Tòa án nhân dân huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai xử phạt 06 tháng tù về tội ”Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong ngày 31/01/2018. Đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Bị cáo có nhân thân xấu: - Năm 1995, bị Tòa án nhân dân huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai xử phạt 04 tháng tù về tội ”Trộm cắp tài sản”. Năm 2014, bị Tòa án nhân dân huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai xử phạt 08 tháng cải tạo không giam giữ về tội ”Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong ngày 07/7/2014. Lẽ ra, bị cáo phải lấy đó làm bài học sâu sắc cho bản thân và cố gắng lao động, rèn luyên bản thân trở thành người công dân sống có ích cho gia đình và xã hội nhưng bị cáo vẫn chưa tu dưỡng đạo đức, tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội.

Tuy nhiên, quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tự nguyện trả lại tài sản đã chiếm đoạt cho người bị hại. Ngươì bị hại cũng có đơn xin bãi nại và xin miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là căn cứ để Hội đồng xét xử xem xét, cân nhắc giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo khi lượng hình thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

[5] Về quyết định hình phạt:

Căn cứ tính chất và mức độ của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để bị cáo suy nghĩ về hành vi phạm tội của mình, cải tạo, học tập, lao động trở thành công dân sống có ích cho xã hội, biết tuân thủ pháp luật đồng thời nhằm răn đe và phòng ngừa chung.

Ngoài hình phạt chính, Hội đồng xét xử không áp dụng thêm hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã trả lại cho người bị hại đủ số tiền 4.600.000đ và người bị hại không yêu cầu bồi thường gì thêm, nên không xem xét giải quyết.

Đi với xe mô tô biển số 60V6-2531 là tài sản của bị cáo, bị cáo đã làm mất không thu hồi lại được nên không xem xét.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

8 Về quyền kháng cáo, kháng nghị:

Bị cáo và bị hại được quyền kháng cáo bản án theo quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp, Viện kiểm sát nhân dân cấp trên được quyền kháng nghị theo quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự.

Xét ý kiến luận tội của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ và phù hợp với tình tiết của vụ án đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa, nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm b, s, khoản 1, 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tuyên bố bị cáo Lê Khắc T (tên gọi khác Nguyễn Thiện L) phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Lê Khắc T (tên gọi khác Nguyễn Thiện L) 10 (mười) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt đi thi hành án.

- Về án phí: Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTTQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Lê Khắc T (Nguyễn Thiện L) phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo, kháng nghị bản án: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án. Người bị hại vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tính từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án. Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp, Viện kiểm sát nhân dân cấp trên được quyền kháng nghị theo quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

183
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 25/2020/HS-ST ngày 28/04/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:25/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Khánh - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về