Bản án 25/2020/HS-ST ngày 27/04/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĂN LÃNG, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 25/2020/HS-ST NGÀY 27/04/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 4 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 19/2020/TLST-HS ngày 19 tháng 3 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 30/2020/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 4 năm 2020 và Thông báo chuyển ngày xét xử số 336/TB-TA ngày 23 tháng 4 năm 2020 đối với bị cáo:

Trương Văn Y, tên gọi khác: Không có; sinh ngày 25 tháng 01 năm 1987 tại huyện V, tỉnh Lạng Sơn; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn K1, xã T1, huyện V, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trương Văn C, sinh năm 1948 (đã chết) và bà Chu Thị P, sinh năm 1944; có vợ là Nông Thị T2 sinh năm 1990 và có 01 con sinh năm 2010; tiền án, tiền sự: Không có; nhân thân: Chưa bị xử lý trách nhiệm hình sự, chưa bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc xử lý kỷ luật; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện V, tỉnh Lạng Sơn từ ngày 24/12/2019 đến nay. Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Bế Quang H - Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Chị Nông Thị T2, sinh năm 1990. Nơi cư trú: Thôn K1, xã T1, huyện V, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.

- Người chứng kiến: Anh Vương Ký L, sinh năm 1992. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trương Văn Y, sinh ngày 25/01/1987, nghiện chất ma túy từ năm 2018 đến nay. Khoảng 15 giờ ngày 23/12/2019, Trương Văn Y đi xe mô tô biển kiểm soát 12K5-57** từ nhà tại thôn K1, xã T1, huyện V, tỉnh Lạng Sơn vào cửa khẩu T3 với mục đích tìm mua ma túy để sử dụng. Khi đi đến đường mòn L, Trương Văn Y để xe ở chân đồi K2 rồi đi bộ lên đỉnh đồi K2 thuộc thôn N, xã T3, huyện V, tỉnh Lạng Sơn gặp một người đàn ông khoảng 40 tuổi (không biết họ tên, địa chỉ); Trương Văn Y hỏi và mua 02 (hai) gói ma túy với giá 200.000 (hai trăm nghìn) đồng. Trương Văn Y cất ma túy vào trong bao thuốc lá nhãn hiệu “HOÀN KIẾM”, cất giấu vào túi quần đằng trước bên trái đang mặc, đi bộ theo đường mòn quay lại lấy xe mô tô đi về nhà; Trương Văn Y cất giấu 02 (hai) gói ma túy vào trong chăn để ở đầu giường ngủ tại phòng khách.

Khoảng 15 giờ ngày 24/12/2019, Trương Văn Y lấy 01 (một) gói ma túy ra đang chuẩn bị sử dụng thì bị tổ công tác Công an huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang. Trương Văn Y đã tự nguyện giao nộp gói ma túy đang chuẩn bị sử dụng và gói ma túy đang cất giấu trong bao thuốc lá nhãn hiệu “HOÀN KIẾM” để ở trong chăn.

Tổ công tác đã thu giữ của Trương Văn Y gồm: 02 (hai) gói giấy kẻ ô ly bên trong chứa chất bột màu trắng nghi là chất ma túy heroine, được niêm phong trong một phong bì ký hiệu bằng chữ viết tay “QT TRƯƠNG VĂN Y”; 01 (một) vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu “HOÀN KIẾM”, bên trong có 01 (một) mẩu giấy bạc đã bị vò nát; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA cũ màu đen đã qua sử dụng, số IMEI: 3589250751226**, bên trong lắp 01 (một) sim Viettel.

Tại Kết luận giám định số 35/KL-PC09 ngày 26/12/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: Chất bột màu trắng gửi giám định đều là chất ma túy Heroine, có tổng khối lượng 0,112 gam (đã trừ bì).

Tại bản Cáo trạng số 19/CT-VKS ngày 19/3/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Trương Văn Y về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của bản thân như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố; bị cáo thừa nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật.

Chị Nông Thị T2 trình bày: Chiếc xe mô tô biển kiểm soát 12K5-57** là tài sản của riêng chị; Trương Văn Y là chồng của chị, thỉnh thoảng lấy xe để đi đón con, đi làm; chị không biết Trương Văn Y lấy xe đi mua ma túy, nếu biết chị đã không cho lấy đi.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Trương Văn Y phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, Điều 50, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Trương Văn Y từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù giam. Bị cáo là người nghiện ma túy, không có thu nhập ổn định, không có tài sản riêng có giá trị nên đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định được để trong một phong bì niêm phong, toàn bộ vỏ bao gói và 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu “HOÀN KIẾM”, bên trong có 01 (một) mẩu giấy bạc đã bị vò nát; trả lại cho bị cáo 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA đã qua sử dụng bên trong lắp 01 (một) sim Viettel.

Người bào chữa cho bị cáo nhất trí với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát về tội danh, điều luật áp dụng, hình phạt và xử lý vật chứng. Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, lượng ma túy tàng trữ không lớn, đề nghị xử phạt bị cáo mức án thấp nhất theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

Tại phần tranh luận, bị cáo nhất trí với ý kiến của người bào chữa cho bị cáo và không có ý kiến tranh luận. Tại lời nói sau cùng, bị cáo rất hối hận và xin được hưởng mức án nhẹ nhất để bị cáo sớm được trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp. Người bào chữa đã thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật.

[2] Về hành vi của bị cáo: Khoảng 15 giờ ngày 24/12/2019, tại thôn K1, xã T1, huyện V, tỉnh Lạng Sơn, tổ công tác Công an huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn đã phát hiện bắt quả tang Trương Văn Y có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy Heroine, có khối lượng là 0,112 gam (đã trừ bì), với mục đích để sử dụng. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người chứng kiến, phù hợp với vật chứng đã thu giữ được, Kết luận giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi bị cáo thực hiện là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Trương Văn Y phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[3] Xét tính chất, mức độ của hành vi phạm tội thấy rằng: Hành vi mà bị cáo thực hiện là nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý các chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự an toàn xã hội, là nguyên nhân gián tiếp gây ra tệ nạn xã hội và các tội phạm khác. Bị cáo nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng chỉ vì để phục vụ cho việc sử dụng ma túy của bản thân, bị cáo đã bất chấp pháp luật và dư luận xã hội, để thực hiện hành vi phạm tội.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[6] Về nhân thân: Bị cáo sử dụng ma túy từ năm 2018 đến nay, điều này thể hiện bị cáo thiếu tu dưỡng, rèn luyện bản thân.

[7] Trên cơ sở đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết xử phạt cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục và phòng ngừa chung.

[8] Về hình phạt bổ sung: Theo Biên bản xác minh ngày 13/02/2020 của Cơ quan điều tra và qua xét hỏi công khai tại phiên tòa sơ thẩm thấy rằng: Bị cáo không có tài sản riêng có giá trị, bản thân nghiện ma túy, vì vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[9] Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu hủy khối lượng ma túy còn lại sau giám định (0,097 gam Heroine) được để trong một phong bì niêm phong ký hiệu bằng chữ viết tay “QT TRƯƠNG VĂN Y”, trên phong bì có chữ ký cùng tên của giám định viên Hoàng Đình C, trợ lý giám định, đóng dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn tại phần giáp lai mới và toàn bộ các vỏ bao gói, 01 (một) vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu “HOÀN KIẾM” bên trong có 01 (một) mẩu giấy bạc đã bị vò nát là vật Nhà nước cấm lưu hành và vật không còn giá trị sử dụng. Trả lại cho bị cáo 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA cũ màu đen đã qua sử dụng, bên trong lắp 01 (một) sim Viettel.

[10] Trách nhiệm bồi thường thiệt hại; vấn đề dân sự trong vụ án hình sự: Không có yêu cầu nên không xem xét.

[11] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn và đề nghị của người bào chữa cho bị cáo về tội danh, hình phạt và xử lý vật chứng phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[12] Đối với chiếc xe mô tô biển kiểm soát 12K5-57**, ngày 23/12/2019 Trương Văn Y sử dụng làm phương tiện đi mua ma túy; quá trình điều tra xác định là tài sản của chị Nông Thị T2; khi Trương Văn Y sử dụng xe đi mua ma túy chị Nông Thị T2 không biết, do đó không có căn cứ để xử lý.

[13] Đối với người đàn ông bán ma túy cho bị cáo, bị cáo không biết họ, tên và địa chỉ. Cơ quan điều tra đã tiến hành tiến hành xác minh nhưng không làm rõ được, do đó không có căn cứ xem xét trong vụ án này.

[14] Bị cáo là người bị kết án, theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm để nộp vào ngân sách Nhà nước. Căn cứ Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, bị cáo có quyền kháng cáo bản án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo phần bản án, quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, điểm c khoản 1 Điều 47, Điều 50, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Căn cứ vào điểm a, c khoản 2 điểm a khoản 3 Điều 106, khoản 2 Điều 136, Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trương Văn Y phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Trương Văn Y 01 (một) năm tù giam, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 24/12/2019.

3. Về xử lý vật chứng:

3.1. Tịch thu tiêu hủy:

- Khối lượng ma túy còn lại sau giám định (0,097 gam Heroine) được để trong một phong bì niêm phong ký hiệu bằng chữ viết tay “QT TRƯƠNG VĂN Y”, trên phong bì có chữ ký cùng tên của giám định viên Hoàng Đình C, trợ lý giám định, đóng dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn tại phần giáp lai mới và toàn bộ các vỏ bao gói.

- 01 (một) vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu “HOÀN KIẾM”, bên trong có 01 (một) mẩu giấy bạc đã bị vò nát.

3.2. Trả lại cho bị cáo Trương Văn Y 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA cũ màu đen đã qua sử dụng, số IMEI: 3589250751226** bên trong lắp 01 (một) sim Viettel. (Vật chứng đang được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện V, tỉnh Lạng Sơn theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 19/3/2020).

4. Về án phí: Bị cáo Trương Văn Y phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm để nộp vào Ngân sách Nhà nước.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo phần bản án, quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

194
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 25/2020/HS-ST ngày 27/04/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:25/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Văn Lãng - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về