Bản án 25/2020/HS-ST ngày 23/04/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁNNHÂN DÂN HUYỆN H, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 25/2020/HS-ST NGÀY 23/04/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 23 tháng 4 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Thanh Hóa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 22/2020/TLST-HS ngày 27 tháng 3 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 42/2020/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 4 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Quang Tr, sinh ngày 25 tháng 5 năm 1991 tại Phường V, Thành phố T, tỉnh Thanh Hóa; Nơi cư trú: SN 164, đường T, Phường V, Thành phố T, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Q và bà Phạm Thị O; vợ con: Chưa có; tiền sự: Không; Tiền án: Ngày 13/8/2014, bị Tòa án nhân dân Thành phố T xử phạt 06 năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Bị cáo bị bắt, tạm giam từ ngày 05/01/2020 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

Người làm chứng:

- Anh Phạm Việt A, sinh nâm 1991 (Vắng mặt)

Địa chỉ: SN184, đường T, Phường V, Thành phố T, tỉnh Thanh Hóa.

- Anh Nguyễn Bá T, sinh năm 1984 (Vắng mặt)

Địa chỉ: Đội 1, xã T, huyện H, tỉnh Thanh Hóa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 00 giờ 00 phút ngày 05/01/2020, Nguyễn Quang Tr đi taxi từ nhà lên khu vực cầu Treo thuộc Phường H, Thành phố T và mua của một người đàn ông không rõ tên, tuổi, địa chỉ 04 (bốn) viên thuốc lắc và 2.000.000đ ma túy dạng “ke” về để sử dụng, tổng hết 4.000.000đ. Sau khi mua được ma túy, Tr đi taxi về nhà rồi đi bộ sang nhà Phạm Việt A, nhờ Anh chở xuống huyện H, tỉnh Thanh Hóa có việc. Đến khoảng 01 giờ cùng ngày, khi đến khu vực thôn 1, xã Th, huyện H thì bị đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an huyện H phát hiện và bắt quả tang. Tại chỗ lực lượng Công an thu giữ trong túi áo phao bên trái của Tr 01 túi nilon màu trắng, kích thước khoảng (3x3) cm bên trong có chứa các hạt tinh thể màu trắng và 01 túi nilon màu trắng kích thước (4,5x4,5) cm bên trong có chứa 04 viên dạng nén hình đầu lâu màu xám và tạm giữ 01 xe máy nhãn hiệu Yamaha Exciter BKS: 36B6 – 92581. Thực hiện lệnh khám xét khẩn cấp tại nơi ở của Nguyễn Quang Tr, Công an không thu giữ gì thêm.

Tại kết luận giám định số 445/MT-PC09 ngày 08/01/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa kết luận:

- Các hạt tinh thể màu trắng của phong bì niêm phong giám định là ma túy, có tổng khổi lượng 0,782g, loại: Ketamine;

- 04 viên dạng nén hình đầu lâu màu xám của phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 1,589g, loại: MDMA.

Vật chứng của vụ án gồm: Toàn bộ số ma túy còn lại sau giám định gồm 0,596g ketamine và 1,189g MDMA được đựng trong các phong bì niêm phong số 445/PC09-01 và số 445/PC09-02 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa, hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện H theo Biên bản giao nhận vật chứng số 36/BBGN ngày 20/4/2020.

Chiếc xe mô tô Yamaha Exciter BKS: 36B6-92581 Phạm Việt A sử dụng để chở Nguyễn Quang Tr, đăng ký xe mang tên Nguyễn Quang Tr, tuy nhiên ngày 30/12/2019, Tr đã bán xe cho Phạm Việt A. Quá trình điều tra xác định việc Tr tàng trữ trái phép chất ma túy trong người, Việt A không biết, nên Cơ quan điều tra đã quyết định xử lý vật chứng trả lại cho Phạm Việt A.

Cáo trạng số 32/CTr-VKSHH ngày 25/3/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện H truy tố bị cáo Nguyễn Quang Tr về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Quang Tr khai nhận toàn bộ hành vi đúng như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Quang Tr phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 53, Điều 38, của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Quang Tr từ 18 tháng đến 24 tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy còn lại sau giám định.

Về án phí: Đề nghị buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo luật định.

Tại lời nói sau cùng, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần trách nhiệm hình sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét hành vi của bị cáo: Nguyễn Quang Tr đã mua 1,589g ma túy loại MDMA và 0,782g ma túy loại Ketamine để sử dụng, và bị bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi của mình, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hành vi của Nguyễn Quang Tr đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm, hình phạt được quy định và trừng trị tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự như Viện kiểm sát đã truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi: Bị cáo Nguyễn Quang Tr nhận thức rõ mức độ nguy hiểm của ma túy, nhưng vẫn cố tình thực hiện hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Hành vi của bị cáo thể hiện rõ sự coi thường pháp luật, xâm phạm trực tiếp đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, xâm phạm đến trật tự trị an, an toàn xã hội, hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội nên cần lên cho bị cáo mức hình phạt tương xứng, buộc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ sức giáo dục, cải tạo, răn đe bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[4] Xét các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Tình tiết tăng nặng: Ngày 13/8/2014 bị Tòa án nhân dân Thành phố T xử phạt 06 năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Bị cáo chưa được xóa án tích thì phạm tội mới nên phải chịu tình tiết tăng nặng là “tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Xét bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có thu nhập gì nên không phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng: Chất ma túy là vật cấm tự do lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy còn lại sau giám định.

Chiếc xe mô tô Yamaha Exciter BKS: 36B6-92581 Phạm Việt A sử dụng để chở Nguyễn Quang Tr. Quá trình điều tra xác định xe thuộc quyền sở hữu hợp pháp của Phạm Việt A, việc Tr tàng trữ trái phép chất ma túy trong người, Việt A không biết, nên Cơ quan điều tra đã quyết định xử lý vật chứng trả lại cho Phạm Việt A là hoàn toàn phù hợp.

Trong vụ án này, Nguyễn Quang Tr khai báo mua số ma túy trên của một người đàn ông không rõ tên, tuổi, địa chỉ nên không có căn cứ để xử lý. Vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét.

[6]. Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 53, Điều 38 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Quang Tr phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Quang Tr 18 (Mười tám) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 05/01/2020) Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định gồm 0,596g ketamine và 1,189g MDMA được đựng trong các phong bì niêm phong số 445/PC09-01 và số 445/PC09-02 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa, hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện H theo Biên bản giao nhận vật chứng số 36/BBGN ngày 20/4/2020.

Về án phí: Áp dụng Điều 135; Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Buộc bị cáo Nguyễn Quang Tr phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

216
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 25/2020/HS-ST ngày 23/04/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:25/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hoằng Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về