Bản án 25/2020/HS-ST ngày 13/11/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH GIA, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 25/2020/HS-ST NGÀY 13/11/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 13 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 24/2020/HSST, ngày 19 tháng 10 năm 2020 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 24/QĐXXST-HS, ngày 30 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo:

Lâm Văn B, sinh ngày 09/4/1997, tại tỉnh Lạng Sơn. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn Nà T, xã Q, huyện B, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không;

quốc tịch: Việt Nam; con ông Lâm Văn T (đã chết) và bà Hứa Thị E, sinh năm 1959; vợ con chưa có; bị cáo có 02 anh em ruột, bị cáo là người con thứ hai; tiền án, tiền sự: Không có, bị cáo chưa bị xử phạt hành chính và xử lý kỷ luật lần nào;

bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 07/8/2020 đến nay. Có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo: Bà Dương Thị Quỳnh Hoa, trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.

Bị hại: Ông Lâm Văn Thể, sinh ngày 03/11/1971. Địa chỉ: Thôn Đ, xã M, huyện B, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Lâm Văn P, sinh năm 1995; địa chỉ: Thôn Nà T, xã Q, huyện B, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.

- Người tham gia tố tụng khác: Người làm chứng: Bà Hà Thị H, bà Hứa Thị E, anh Lâm Văn Q, anh Lâm Văn H, anh Lê Văn S, anh Nguyễn Trọng Đ. Có mặt. Bà Lưu Thị S, anh Hoàng Văn G, anh Nguyễn Văn S. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Chiều ngày 09/7/2020, bị cáo Lâm Văn B sinh năm 1997 trú tại thôn Nà T, xã Q, huyện B, tỉnh Lạng Sơn điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 12K2 . 6784 của gia đình đến nhà ông Lâm Văn T, sinh năm 1971, trú tại thôn Đ, xã M, huyện B, tỉnh Lạng Sơn là anh trai họ của bị cáo, để giúp gia đình ông Lâm Văn Thể gặt lúa, tối ngủ lại nhà ông Lâm Văn T. Sáng ngày 10/7/2020 bị cáo Lâm Văn B gặt lúa của gia đình, gặt xong bị cáo Lâm Văn B buộc 02 bao thóc lên xe mô tô biển kiểm soát 12K2 - 6784 và chở về nhà ông Lâm Văn T. Đến khoảng 11 giờ 30 phút cùng ngày bị cáo Lâm Văn B điều khiển xe mô tô chở 02 bao thóc đi về nhà ở thôn Nà T, xã Q, huyện B, trên đường về thấy xe mô tô M H màu đỏ đen Biển kiểm soát 12B1-137.52 của ông Lâm Văn T đổ nghiêng ở cạnh đường cách nhà ông Lâm Văn T khoảng 40 mét, do trước đó chiều ngày 09/7/2020 Lâm Văn B nhìn thấy ông Lâm Văn Thể mở cốp xe lấy tiền cho anh Lâm Văn Hưng là con trai ông Lâm Văn Thể đi mua quà cho cháu, quan sát xung quanh thấy không có người đi lại, bị cáo Lâm Văn B nảy sinh ý định trộm cắp tiền của ông Lâm Văn T. Bị cáo Lâm Văn B đi tiếp khoảng 20 mét thì dừng xe tắt máy và đi bộ đến chỗ xe ông Lâm Văn T, thấy chìa khóa vẫn cắm ổ khóa điện, tay phải Lâm Văn B vặn mở khóa điện bật cốp lên thì thấy trong cốp xe có một chiếc ví da màu đen, bên trong có giấy chứng minh nhân dân, giấy đăng ký xe của ông Lâm Văn T và một số tiền mặt. Thấy vậy tay trái Lâm Văn B cầm lấy hết số tiền trong ví đút vào túi quần sau bên trái đang mặc và để lại ví cùng giấy tờ vào cốp xe khóa lại, chìa khóa xe vẫn để nguyên ở ổ khóa điện rồi thóc đi về nhà.

Trên đường về, bị cáo đến nhà ông Hà Văn B sinh năm 1971, trú tại thôn Đ, xã M, huyện B chơi đến khoảng 17 giờ cùng ngày thì bị cáo Lâm Văn B đi về nhà tại thôn Nà T, xã Q, huyện B, tại nhà bị cáo lấy số tiền vừa trộm cắp được của ông Lâm Văn Thể ra đếm có tổng số 14.300.000đồng, gồm các mệnh giá 500.000đồng, 200.000đồng và 100.000đồng, đếm xong bị cáo Lâm Văn Báo để tiền vào dưới chăn trên giường ngủ.

Sáng ngày 11/7/2020, bị cáo Lâm Văn B rủ anh Lâm Văn H sinh năm 1998, trú cùng thôn là bạn của bị cáo Lâm Văn B đi ra Thị trấn B chơi, anh Lâm Văn H điều khiển xe mô tô chở Lâm Văn B ra đến Thị trấn B, bị cáo Lâm Văn B và anh Lâm Văn H đến cửa hàng điện thoại di động T của anh Nguyễn Trong Đ tại khối phố C, Thị trấn B, huyện B, tỉnh Lạng Sơn, tại đây bị cáo Lâm Văn B đã mua một chiếc điện thoại di động màn hình cảm ứng màu đen, nhãn hiệu OPPO 31 với giá 3.000.000đồng; 01 sim VIN PHONE giá 200.000đồng, mua điện thoại xong bị cáo Lâm Văn B cùng anh Lâm Văn H quay về nhà ở thôn Nà T, xã Q, huyện B. Sáng ngày 12/7/2020, bị cáo Lâm Văn B điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 12K2 - 6784 ra Thị trấn B và bán chiếc xe mô tô trên cho Nguyễn Văn Sáng sinh năm 1988 là chủ thu mua phế liệu tạm trú tại khối phố 6B, Thị trấn B, huyện B, tỉnh Lạng Sơn. Sau đó, bị cáo Lâm Văn B đi đến các tỉnh Bắc Ninh, thành phố H và tỉnh Vĩnh Phúc tìm việc làm và đã chi tiêu hết số tiền còn lại.

Chiều ngày 10/7/2020 ông Lâm Văn T phát hiện bị mất tài sản, nên đã trình báo Công an để điều tra làm rõ vụ án, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B đã tiến hành khám nghiệm hiện trường, thu thập tài liệu chứng cứ và tiến hành các biện pháp truy tìm. Tại cơ quan Công an bị cáo Lâm Văn B đã khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp tiền của ông Lâm Văn T ngày 10/7/2020 tại thôn Đ, xã M, huyện B, tỉnh Lạng Sơn. Lời khai nhận của bị cáo Lâm Văn B là phù hợp với các tài liệu chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án.

Ngày 07/8/2020, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B đã ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can và ra lệnh bắt bị can để tạm giam đối với bị cáo Lâm Văn B về tội Trộm cắp tài sản, theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Đối với anh Lâm Văn H cùng với bị cáo Lâm Văn B đi mua điện thoại không biết tiền bị cáo Lâm Văn B dùng để mua điện thoại, sim bằng số tiền trộm cắp được. Anh Nguyễn Trọng Đ là chủ cửa hàng điện thoại T không biết việc bị cáo Lâm Văn B trả tiền mua điện thoại, sim bằng số tiền trộm cắp được mà có, nên cơ quan điều tra không xem xét.

Về vật chứng vụ án gồm: 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO 31 màu đen màn hình cảm ứng, số imel1: 860646040671521; số imel2: 860646040671504 và 01 sim có số liên lạc 0824419479, sim đã qua sử dụng.

Về trách nhiệm dân sự: Ngày 02/9/2020, Lâm Văn P sinh năm 1995, trú tại thôn Nà T, xã Q, huyện B, tỉnh Lạng Sơn là anh ruột của bị cáo Lâm Văn B đại diện gia đình đã tự nguyện bồi thường thiệt hại cho ông Lâm Văn T số tiền 14.300.000 đồng để khắc phục hậu quả. Đồng thời ông Lâm Văn T có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Lâm Văn B. Tại phiên tòa anh Lâm Văn P cho biết tiền bồi thường thiệt hại là của gia đình, nay không đòi bị cáo Lâm Văn B phải trả lại.

Người làm chứng tại phiên tòa khai báo đúng với diễn biến nội dung vụ án.

Bản cáo trạng số: 22/CT-VKS, ngày 19/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện B đã truy tố bị cáo Lâm Văn B về tội "Trộm cắp tài sản" theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận, bị cáo Lâm Văn B thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng đã nêu, không kêu oan, cho thấy hành vi của bị cáo đã c u thành tội Trộm cắp tài sản. Do vậy, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lâm Văn B phạm tội Trộm cắp tài sản, áp dụng khoản 1 Điều 173, các điểm b, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, các Điều 50, 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, đề nghị xử phạt bị cáo Lâm Văn B từ 06 đến 09 tháng tù. Về trách nhiệm dân sự: Tài sản của bị hại là khoản tiền 14.300.000đồng bị mất trộm, ngày 02/9/2020 anh trai của bị cáo là anh Lâm Văn P đã thay mặt gia đình bồi thường cho bị hại Lâm Văn T thay cho bị cáo, tại phiên tòa bị hại không yêu cầu bồi thường thêm. Đối với chiếc điện thoại nhãn hiệu OPPO 31 thu được của bị cáo tuy là tài sản mua được do phạm tội mà có, nhưng anh Lâm Văn P đã đại diện gia đình bồi thường toàn bộ thiệt hại, nên cần xem xét trả lại cho bị cáo là phù hợp, đồng thời xác nhận việc đã bồi thưởng đủ tài sản bị thiệt hại. Miễn án phí cho bị cáo và đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo do bị cáo sống phụ thuộc gia đình và không có tài sản để đảm bảo thi hành án.

Người bào chữa cho bị cáo Lâm Văn B nêu luận cứ bào chữa cho bị cáo, nhất trí với lời luận tội của Kiểm sát viên, việc truy tố là đúng người, đúng tội, không oan và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173, các điểm b, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, các Điều 50, 65 của Bộ luật Hình sự là bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, thành khẩn khai báo, bị cáo đang sinh sống tại vùng xã có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn, bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, đề nghị xử phạt giảm nhẹ cho bị cáo Lâm Văn B phạt bị cáo từ 06 đến 09 tháng tù, cho bị cáo được hưởng án treo, xem xét xác nhận việc bồi thường, xử lý về vật chứng, miễn án phí sơ thẩm cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét h i, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về quá trình điều tra, truy tố, Điều tra viên và Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra truy tố và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, ngh a vụ liên quan đến vụ án đều không có ý kiến khiếu nại gì về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội, chứng cứ buộc tội: Căn cứ vào lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai của bị hại, lời khai người làm chứng, lời khai của người có quyền lợi, ngh a vụ liên quan đến vụ án và các tài liệu chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ xác định hành vi của bị cáo là lén lút, bí mật chiếm đoạt tài sản của bị hại với số tiền là 14.300.000đồng đã đủ yếu tố c u thành tội phạm Trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự. Bị cáo cáo có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, Viện kiểm sát nhân dân huyện B truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan, cần tuyên bố bị cáo phạm tội Trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015, Sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ.

[3] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo được hưởng 4 tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo, động viên gia đình bồi thường thiệt hại khắc phục hậu quả, bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trong theo quy định tại các điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự và 01 tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự là người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

[4] Về nhân thân người phạm tội: Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, chưa bị xử lý kỷ luật lần nào.

[5] Xét về tính chất mức độ phạm tội của bị cáo: Bị cáo Lâm Văn B phạm tội do lợi dụng sơ hở của chủ sở hữu trong quản lý tài sản mà bị hại là anh họ của mình là người đang tạo điều kiện cho gia đình mình về đất canh tác hoa màu, Lâm Văn B đã có cơ hội tiếp cận để thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của bị hại để tiêu sài cá nhân, sau khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo đã bỏ trốn khỏi địa phương, mặc dù được gia đình vận động ra đầu thú nhưng bị cáo vẫn cố tình lẩn trốn, gây khó khăn cho công tác điều tra truy bắt, từ nhận định đánh giá trên, căn cứ Điều 50 của Bộ luật Hình sự, cần áp dụng hình phạt cho bị cáo Lâm Văn B tù giam trên mức khởi điểm của khung hình phạt, nhằm cách ly bị cáo ra khỏi đời sỗng xã hội đủ để bị cáo cải tạo thành người có ích cho xã hội là hợp lý.

[6] Đối với anh Lâm Văn H và anh Nguyễn Trọng Đ không biết được việc trộm cắp tài sản của bị cáo và tài sản do trộm cắp mà có, nên cơ quan điều tra không xem xét là đúng quy định.

[7] Về hình phạt bổ sung: Theo kết quả xác minh của cơ quan điều tra và xét h i tại phiên tòa thấy, bị cáo sống phụ thuộc gia đình, không có tài sản riêng, nên không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo là có căn cứ.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Ngày 02/9/2020 anh Lâm Văn P là anh trai của bị cáo đã thay mặt gia đình nộp tiền bồi thường khắc phục hậu quả cho người bị hại số tiền là 14.300.000đồng, bị hại đã nhận đủ tiền và không yêu cầu bồi thường thêm, nên cần xác nhận đã bồi thường thiệt hại đủ. Tại phiên tòa, anh Lâm Văn P không yêu cầu bị cáo trả lại số tiền trên nên không xem xét.

[9] Về vật chứng: Là 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO 31 màu đen màn hình cảm ứng và 01 sim đã qua sử dụng, mặc dù bị cáo mua được bằng tiền do phạm tội mà có, nhưng gia đình bị cáo đã bồi thường toàn bộ thiệt hại cho bị hại, nên cần trả lại cho bị cáo là phù hợp.

[10] Về án phí: Tại phiên tòa bị cáo có đơn xin miễn án phí, Hội đồng xét xử th y: Bị cáo là người dân tộc thiểu số, đang sinh sống tại xã có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn, nên được ch p nhận.

[11] ] Lời của người bào chữa cho bị cáo đề nghị áp dụng Điều 65 để cho bị cáo hưởng án treo là không có căn cứ nên không ch p nhận.

[12] Lời đề nghị của Kiểm sát viên cơ bản là có căn cứ, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử, nên được xem xét trong phần quyết định.

[13] Bị cáo, các bị hại, người có quyền lợi và ngh a vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo theo luật định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173, các điểm b, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 38, khoản 1 Điều 50, khoản 2 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố: Bị cáo Lâm Văn B phạm tội "Trộm cắp tài sản".

- Xử phạt bị cáo Lâm Văn B 08 (tám) tháng tù giam. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam ngày 07/8/2020.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo Lâm Văn B.

2. Về trách nhiệm dân sự: Xác nhận gia đình bị cáo đã bồi thường toàn bộ cho bị hại số tiền là 14.300.000đồng (mười bốn triệu ba trăm nghìn đồng).

3. Về vật chứng: Trả lại cho bị cáo Lâm Văn B 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO 31 màu đen màn hình cảm ứng, số imel1: 860646040671521; số imel2: 860646040671504 và 01 sim điện thoại có số liên lạc 0824419479 đã qua sử dụng, theo biên bản giao giao nhận vật chứng ngày 20/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn.

4. Về án phí: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt, có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 25/2020/HS-ST ngày 13/11/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:25/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Gia - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về