Bản án 25/2020/HS-ST ngày 10/03/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIA LÂM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 25/2020/HS-ST NGÀY 10/03/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

 Ngày 10 tháng 03 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 15/2020/TLST-HS ngày 17 tháng 02 năm 2020 theo Quyết định đưa ra xét xử số 17/2020/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 02 năm 2020, đối với bị cáo:

Hoàng Văn Đ, sinh năm 1984; đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi cư trú: Thôn X, xã V, huyện P, thành phố H; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: 9/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; họ tên cha: Hoàng Văn D (đã chết); họ tên mẹ: Trịnh Thị H; gia đình có 03 anh chị em, bị cáo là con thứ ba; họ tên vợ: Vi Thị H; bị cáo có 02 con, con lớn sinh năm 2012 và con nhỏ sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Năm 2012, đi cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm Giáo dục Lao động Xã hội số 1 Ba Vì, Hà Nội với thời gian 24 tháng. Ngày 16/06/2014 về địa phương (đã hết thời hiệu).

Bị cáo bị bắt quả tang, bị tạm giữ từ ngày 18/11/2019 đến ngày 24/11/2019 chuyển tạm giam. Hiện đang bị áp dụng biện pháp tạm giam tại Trại tạm giam số 2, Công an thành phố Hà Nội (có mặt tại phiên tòa).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Trần Bình T, sinh năm 1970; đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ Y, phường Đ, quận L, thành phố H; nơi cư trú: Số Z ngõ 332, phường Đg, quận L, thành phố H (vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 15 giờ 30 phút ngày 18/11/2019, tổ công tác Y20/141 - Công an thành phố Hà Nội phối hợp cùng đồn Công an Bắc Đuống - Công an huyện Gia Lâm làm nhiệm vụ tuần tra tại Dốc Lã, Yên Thường, Gia Lâm, Hà Nội, phát hiện anh Trần Bình T điều khiển xe máy BKS 29X8-2358, phía sau chở Hoàng Văn Đ có biểu hiện liên quan đến ma túy. Quá trình kiểm tra, phát hiện bắt quả tang Hoàng Văn Đ đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Về vật chứng thu giữ, gồm:

- Thu giữ của Hoàng Văn Đ: 01 đoạn ống hút nhựa màu đỏ được hàn kín hai đầu bên trong chứa 01 viên nén hình tròn màu hồng và 03 gói giấy bạc màu trắng bên trong chứa chất bột màu trắng; 01 chiếc khẩu trang bằng vải bên trong màu trắng, bên ngoài có sọc kẻ đen trắng.

- Thu giữ của anh Trần Bình T: 01 xe máy nhãn hiệu SUFAT mang biển kiểm soát 29X8-2358; 01 tờ tiền mệnh giá 50.000 đồng.

Tại Kết luận giám định số 7419/KLGĐ-PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội ngày 27/11/2019 kết luận: Chất bột màu trắng bên trong 03 gói giấy bạc màu trắng là ma túy loại Heroine, tổng khối lượng 0,246 gam; 01 viên nén hình tròn màu hồng bên trong 01 đoạn ống hút nhựa màu đỏ được hàn kín hai đầu, là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,103 gam.

Tại cơ quan điều tra, Hoàng Văn Đ khai nhận: Đ là đối tượng nghiện chất ma túy. Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 18/11/2019, Đ từ nhà ở Phúc Thọ, Hà Nội đi xe buýt sang khu vực ngã 5 cầu Đuống, Yên Viên, Gia Lâm, Hà Nội thuê xe ôm chở đến Từ Sơn, Bắc Ninh để mua ma túy về sử dụng. Tại đây, Đ gặp và thuê anh Trần Bình T chở lên khu vực Từ Sơn, Bắc Ninh với giá 50.000 đồng, T đồng ý, đi xe máy BKS: 29X8-2358 chở Đ đến khu vực Từ Sơn, Bắc Ninh rẽ vào một ngõ nhỏ, Đ trả tiền xe ôm 50.000 đồng và nói T chờ ở đầu ngõ. Đ đi vào trong ngõ đến trước ngôi nhà có cổng sắt đóng kín, Đ đưa 500.000 đồng qua ô cổng để mua ma túy thì có người ở bên trong đưa cho Đ 01 đoạn ống hút nhựa màu đỏ được hàn kín hai đầu bên trong chứa 01 viên nén hình tròn là ma túy hồng phiến màu hồng và 04 gói giấy bạc màu trắng bên trong chứa chất bột màu trắng, là ma túy Heroine. Đ cầm số ma túy cất giấu vào bên trong khẩu trang Đ đang sử dụng. Sau đó, Đ quay lại chỗ T đứng chờ để đi về. Trên đường đi Đ không rõ bị rơi mất 01 gói giấy bạc chứa ma túy Heroine ở đâu. Khi đến khu vực Dốc Lã, Yên Thường, Gia Lâm, Hà Nội thì Đ và T bị lực lượng Công an kiểm tra, Đ bị bắt quả tang cùng vật chứng nêu trên.

Đối với người bán ma túy cho Hoàng Văn Đ do không xác định được nhân thân nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý.

Đối với 01 xe máy nhãn hiệu SUFAT mang biển kiểm soát 29X8-2358 thu giữ của Trần Bình T, không rõ số khung số máy. T khai năm 2016 đã mua chiếc xe máy trên của một người bạn không rõ nhân thân với giá 1.500.000 đồng, T còn nợ người kia tiền nên chưa được giao giấy tờ xe. Quá điều tra xác minh biển kiểm soát xe máy trên đứng tên Hà Công L, sinh năm 1961; trú tại: P304 Châu L, phường T, quận T, thành phố H. Ông L khai nhận từng sở hữu chiếc xe SUFAT mang biển kiểm soát 29X8-2358, năm 2014 ông L đã bán chiếc xe với giá 2.000.000 đồng cho một người đàn ông không quen biết. Ngày 12/12/2019, Cơ quan cảnh sát điều tra, Công an huyện Gia Lâm đã ra quyết định trưng cầu giám định tình trạng nguyên thủy của số khung số máy xe máy nhãn hiệu SUFAT mang biển kiểm soát 29X8-2358, đến nay chưa có kết quả. Ngày 07/02/2019, Cơ quan cảnh sát điều tra, Công an huyện Gia Lâm ra quyết định xử lý vật chứng, tách chiếc xe máy trên cùng các tài liệu liên quan để điều tra, xác minh xử lý sau.

Đối với số tiền 50.000 đồng thu giữ của Trần Bình T không liên quan đến hành vi phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy của bị can Hoàng Văn Đ. Trần Bình T không muốn nhận lại và tự nguyện nộp sung công quỹ nhà nước.

Tại bản Cáo trạng số 18/CT-VKSGL ngày 13 tháng 02 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm truy tố bị cáo Hoàng Văn Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã khai tại cơ quan điều tra và Cáo trạng đã truy tố. Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân huyện Gia Lâm tham gia phiên tòa luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố theo Cáo trạng; sau khi phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt: Hoàng Văn Đ từ 20 tháng đến 24 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 18/11/2019; không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu và tiêu huỷ số ma túy thu giữ của bị cáo; tịch thu và tiêu huỷ chiếc khẩu trang thu giữ của bị cáo; tịch thu, nộp ngân sách nhà nước số tiền 50.000 đồng thu giữ của Trần Bình T.

Sau khi nghe Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội, bị cáo không có tranh luận gì. Trong lời nói sau cùng, bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Gia Lâm và Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân huyện Gia Lâm và Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội và tội danh:

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, lời khai của người chứng kiến, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, có đủ cơ sở kết luận:

Hồi 14 giờ 00 phút ngày 18/11/2019, tại khu vực Dốc Lã, xã Yên Thường, huyện Gia Lâm, Hà Nội, bị cáo Hoàng Văn Đ có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy loại Methamphetamine có khối lượng 0,103 gam và ma túy loại Heroine có khối lượng 0,246 gam để sử dụng thì bị cơ quan Công an bắt giữ cùng vật chứng. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý Nhà nước đối với các chất ma tuý. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm truy tố bị cáo theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về hình phạt áp dụng đối với bị cáo:

[3.1] Về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm chế độ độc quyền quản lý Nhà nước đối với các chất ma tuý, gây mất trật tự trị an xã hội. Methamphetamine và Heroine là các chất ma tuý rất độc hại, tàn phá và huỷ hoại sức khoẻ con người, là một trong những nguyên nhân chính phát sinh ra các tệ nạn xã hội và các loại tội phạm đặc biệt nghiêm T khác trong đời sống xã hội. Trong những năm qua, tội phạm về ma tuý trên địa bàn thành phố Hà Nội diễn biến rất phức tạp, Nhà nước, các cấp chính quyền và Đoàn thể rất quan tâm và nỗ lực tuyên truyền, giáo dục về tác hại của ma tuý, kêu gọi toàn dân tích cực tham gia phòng chống tệ nạn về ma tuý và tội phạm may tuý. Bị cáo nhận thức được tác hại và hậu quả do ma tuý gây ra nhưng không tích cực phòng chống mà còn tàng trữ để sử dụng nên cần thiết phải xử lý nghiêm minh để giáo dục, cải tạo đối với bị cáo và phòng ngừa chung; góp phần đấu tranh phòng chống tệ nạn và các tội phạm về ma tuý trong đời sống xã hội.

[3.2] Về nhân thân bị cáo: Bị cáo là người nghiện ma túy. Năm 2012, bị đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm Giáo dục Lao động Xã hội số 1 Ba Vì, Hà Nội với thời gian 24 tháng. Ngày 16/06/2014 về địa phương. Bị cáo có nhân thân xấu, đã từng bị xử lý hành chính, khi trở về nơi cư trú không cố gắng rèn luyện bản thân, hòa nhập cộng đồng, mà lại tiếp tục tàng trữ ma túy để sử dụng.

[3.3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải. Như vậy, bị cáo có 01 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[3.4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Tổng hợp nhận định ở trên, Hội đồng xét xử nhận thấy cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn để đảm bảo việc răn đe, giáo dục riêng đối với bị cáo và phòng ngừa chung như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân huyện Gia Lâm tại phiên toà là phù hợp.

[3.5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo tại phiên toà thể hiện: Bị cáo không có việc làm, thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Về xử lý vật chứng: Đối với số ma túy thu giữ của bị cáo là vật nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên cần tịch thu, tiêu hủy. Đối với chiếc khẩu trang thu giữ của bị cáo là tài sản liên quan đến tội phạm, có giá trị sử dụng không đáng kể nên cần tịch thu, tiêu hủy. Đối với số tiền 50.000 đồng thu giữ của Trần Bình T không liên quan đến hành vi phạm tội và T tự nguyện nộp sung công quỹ nhà nước nên cần tịch thu, nộp ngân sách nhà nước.

Đối với chiếc xe máy SUFAT thu giữ của Trần Bình T: Qua xác minh chưa xác định được chủ sở hữu hợp pháp và cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Gia Lâm đã ra quyết định tách tài liệu về chiếc xe máy trên để tiếp tục điều tra, xử lý sau nên Hội đồng xét xử không xét.

[5] Về án phí: Bị cáo phạm tội phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[6] Về quyền kháng cáo: Bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[7] Về các nội dung khác:

Đối với đối tượng bán ma túy cho Đ thì Đ không biết tên tuổi, địa chỉ, đặc điểm nhận dạng, Cơ quan điều tra không có căn cứ xử lý nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với anh Trần Bình T, quá trình điều tra anh T không biết và không liên quan đến hành vi phạm tội của Đ, Cơ quan điều tra không đề nghị xử lý nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Hoàng Văn Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt:

2.1. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Hoàng Văn Đ 18 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt quả tang 18/11/2019.

2.2. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

3.1. Tịch thu, tiêu huỷ 0,103 gam (đã trích mẫu 0,038 gam) ma túy loại Methamphetamine và 0,246 gam (đã trích mẫu 0,021 gam) ma túy loại Heroine thu giữ của bị cáo Hoàng Văn Đ, đựng trong 01 phong bì niêm phong có chữ ký của Hoàng Văn Đ và Giám định viên, do Phòng PC09-Công an thành phố Hà Nội hoàn lại sau giám định (tình trạng vật chứng như Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan điều tra Công an huyện Gia Lâm và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gia Lâm ngày 26/02/2020).

3.2. Tịch thu, tiêu huỷ 01 chiếc khẩu trang bằng vải bên trong màu trắng, bên ngoài có sọc kẻ đen trắng thu giữ của bị cáo Hoàng Văn Đ (tình trạng vật chứng như Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan điều tra Công an huyện Gia Lâm và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gia Lâm ngày 26/02/2020).

3.3. Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước số tiền 50.000 đồng thu giữ của Trần Bình T (hiện Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gia Lâm đang quản lý theo Biên lai thu tiền số AA/2010/0000493 ngày 25/02/2020).

4. Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Danh mục án phí, lệ phí Tòa án kèm theo.

Bị cáo Hoàng Văn Đ phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Trần Bình T có quyền kháng cáo những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

163
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 25/2020/HS-ST ngày 10/03/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:25/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gia Lâm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/03/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về