Bản án 25/2020/HNGĐ-ST ngày 26/08/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN LÃO, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 25/2020/HNGĐ-ST NGÀY 26/08/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 26 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện An Lão, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 134/2020/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 5 năm 2020 về tranh chấp “Ly hôn, nuôi con chung khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 658/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 01 tháng 8 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 725/2020/QĐST-HNGĐ ngày 18 tháng 8 năm 2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Lê Thị A; địa chỉ nơi ĐKHKTT và nơi ở: Thôn Đ, xã T, huyện A, Hải Phòng.

Bị đơn: Anh Dương Văn H; địa chỉ nơi ĐKHKTT và nơi ở: Thôn Đ, xã T, huyện A, Hải Phòng.

Chị A vắng mặt có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt. Anh H vắng mặt không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn khởi kiện đề ngày 11 tháng 5 năm 2020, các bản tự khai, phiên hòa giải, chị A trình bày yêu cầu như sau:

Chị Lê Thị A và anh Dương Văn H kết hôn trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu, có tổ chức cưới theo phong tục tập quán năm, có đăng ký kết hôn năm 2013 tại UBND xã Tân Dân, huyện An Lão, Hải Phòng Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống với nhau được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn và ngày càng trầm trọng. Nguyên nhân mâu thuẫn của vợ chồng anh chị là anh H ham mê chơi bời, tụ tập bạn bè, thường xuyên vắng nhà không quan tâm đến gia đình. Bản thân anh H không có công ăn việc làm nên kinh tế gia đình khó khăn, vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vã. Từ cuối năm 2019, đầu năm 2020 chị A đã bế con về nhà bố mẹ đẻ sinh sống và anh chị đã sống ly thân không ai còn quan tâm đến ai nữa. Nay chị A thấy tình cảm vợ chồng không còn, không thể tiếp tục chung sống với nhau được nữa nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị ly hôn với anh H.

Về con chung: Chị Lê Thị A và anh Dương Văn H có 01 con chung Dương Trí Đ sinh ngày 24/01/2015. Khi ly hôn chị Hồng đề nghị được nuôi con chung đến khi trưởng thành và không yêu cầu Anh H cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Chị A không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Bị đơn là anh Dương Văn H dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng không đến Tòa án làm việc và không có bất kỳ quan điểm, tài liệu, chứng cứ gì gửi cho Tòa án.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện An Lão tham gia phiên tòa phát biểu về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký, các đương sự và đề nghị Hội đồng xét xử: Chấp nhận yêu cầu của chị A, xử cho chị A được ly hôn với anh H; giao con chung cho chị A nuôi dưỡng đến khi trưởng thành đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Tuyên các vấn đề về án phí, quyền kháng cáo đối với các đương sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng:

[1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Đây là vụ án “Ly hôn, tranh chấp về con chung khi ly hôn” không có yếu tố nước ngoài; bị đơn sinh sống tại thôn Đại Hoàng 2, xã Tân Dân, huyện An Lão, Hải Phòng nên vụ án này thuộc thẩm quyền giải quyết sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện An Lão, thành phố Hải Phòng theo khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

[2] Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhiều lần đến nhà anh H thực hiện tống đạt các văn bản tố tụng cho anh nhưng do anh vắng nhà nên ông Dương Văn D là bố đẻ của anh nhận thay, cam kết giao lại cho anh. Ông Dương Văn D xác nhận sự việc trong biên bản làm việc với Tòa án: "Sau khi nhận thay các văn bản thông báo của Tòa án, ông đã thông báo lại cho anh H, anh H đã biết và nêu ý kiến sẽ không đến Tòa án làm việc". Xác minh tại địa phương cho thấy: Thực tế anh H vẫn sinh sống tại địa chỉ thôn Đ, xã T, huyện A, Hải Phòng nhưng do nợ nần nên anh H luôn tránh mặt mọi người. Như vậy, có đủ căn cứ để xác định anh H biết rõ việc chị A đang khởi kiện xin ly hôn với anh và anh có nghĩa vụ đến làm việc với Tòa án nhưng anh không đến. Các văn bản của Tòa án nói chung, quyết định xét xử, quyết định hoãn phiên tòa của Tòa án nói riêng đã được tống đạt cho bị đơn đúng theo quy định nhưng bị đơn vẫn vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt bị đơn theo điểm b, khoản 2, Điều 227 và khoản 3, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về nội dung vụ án:

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị A và anh Dương Văn H kết hôn trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu, có tổ chức cưới theo phong tục tập quán năm, có đăng ký kết hôn năm 2013 tại UBND xã Tân Dân, huyện An Lão, Hải Phòng. Do vậy, quan hệ hôn nhân giữa hai anh chị là quan hệ hôn nhân hợp pháp.

[4] Tòa án nhân dân huyện An Lão đã tiến hành thu thập tài liệu, chứng cứ, xác minh tình trạng cư trú và hôn nhân giữa chị A và anh H. Qua đó nhận thấy nguyên nhân mâu thuẫn của vợ chồng anh chị là do bản thân anh H là người mải mê chơi bời, không quan tâm đến gia đình. Chính quyền địa phương và bố đẻ anh H là ông Dương Văn D cho biết anh H không có công ăn việc làm ổn định, do chơi bời anh H mắc nợ nên nhiều người đến tìm đòi nợ khiến cuộc sống gia đình không yên ổn. Gia đình đã khuyên giải anh nhiều lần nhưng không được. Từ đầu năm 2020, chị A đã đưa con về nhà bố mẹ đẻ sinh sống và anh chị đã ly thân từ đó đến nay không ai còn quan tâm đến ai nữa. Quá trình giải quyết vụ án, anh H dù biết rõ chị A đang yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh nhưng anh H không đến cũng như không giao nộp cho Tòa án bất kỳ văn bản nào thể hiện quan điểm của mình. Điều đó thể hiện anh H không quan tâm đến việc hàn gắn, giữ gìn hạnh phúc gia đình. Hội đồng xét xử đủ cơ sở nhận định mâu thuẫn giữa anh chị Lê Thị A và anh Dương Văn H đã rất trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, anh chị không còn tình cảm và trách nhiệm với nhau nữa nên chấp nhận cho chị Lê Thị Ạn được ly hôn với anh Dương Văn H là phù hợp với thực tế cuộc sống của anh chị và phù hợp với quy định tại Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[5] Về con chung: Chị Lê Thị A và anh Dương Văn H có 01 con chung Dương Trí Đ sinh ngày 24/01/2015. Khi ly hôn chị Hồng đề nghị được nuôi con chung đến khi trưởng thành và không yêu cầu Anh H cấp dưỡng nuôi con. Quá trình điều tra xác định được hiện cháu Đ thực tế đang ở cùng với mẹ. Chị A đang là công nhân nhà máy giầy Sao Vàng, mức lương khoảng 5-6 triệu/tháng và có nơi ở ổn định. Anh H không có công việc và thu nhập ổn định, không đến Tòa án làm việc, không có quan điểm gửi Tòa án. Xét yêu cầu của chị A phù hợp với thực tế cuộc sống của anh chị và con chung nên Hội đồng xét xử chấp nhận giao con chung cho chị A nuôi dưỡng đến khi trưởng thành. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho anh H

[6] Về tài sản chung: Chị Lê Thị A không yêu cầu Tòa án giải quyết, anh Dương Văn H không có quan điểm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về án phí: Chị Lê Thị A phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; Điều 144 và khoản 4 Điều 147; điểm b, khoản 2, Điều 227 và khoản 3, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Căn cứ vào Điều 56; Điều 57 và Điều 58 Luật Hôn nhân và gia đình.

Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, xử:

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị A được ly hôn với anh Dương Văn H.

2. Về con chung: Giao con chung Dương Trí Đ sinh ngày 24/01/2015 cho chị Lê Thị A trực tiếp nuôi dưỡng đến khi trưởng thành đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho anh Dương Văn H.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Lê Thị A phải nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm. Chị Lê Thị A đã nộp đủ số tiền trên theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0011374 ngày 26 tháng 5 năm 2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Lão.

4. Về quyền kháng cáo: Chị Lê Thị A và anh Dương Văn H có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

248
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 25/2020/HNGĐ-ST ngày 26/08/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:25/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Lão - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về