Bản án 25/2020/HNGĐ-ST ngày 25/05/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIỒNG TRÔM, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 25/2020/HNGĐ-ST NGÀY 25/05/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 25 tháng 5 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 453/2019/TLST-HNGĐ ngày 18 tháng 12 năm 2019 về việc: “ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 56/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 16 tháng 4 năm 2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Mộng T, sinh năm 1985 (xin vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp H, xã S, huyện G, tỉnh Bến Tre.

2. Bị đơn: Ông Trần Hữu N, sinh năm 1985 (vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp H, xã S, huyện G, tỉnh Bến Tre.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 26/9/2019, bản tự khai, các tài liệu, chứng cứ cung cấp cho Tòa án, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Mộng T trình bày:

Về hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Mộng T và ông Trần Hữu N tự nguyện kết hôn vào năm 2008, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã S, huyện G, tỉnh Bến Tre và được cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn vào ngày 12/9/2008. Bà T và ông N sống chung hạnh phúc thời gian đầu đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm trong cuộc sống, thường xuyên cãi nhau nên ông N bỏ nhà đi; bà T và ông N sống ly thân từ năm 2017 cho đến nay. Nay bà T xác định tình cảm vợ chồng không còn với ông N nên bà T làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà T được ly hôn với ông N. Trong quá trình thụ lý giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre đã triệu tập hợp lệ nhiều lần bị đơn ông Trần Hữu N để tiến hành công khai chứng cứ và hòa giải nhưng ông N vắng mặt không lý do nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến hay yêu cầu của ông N và không tiến hành hòa giải được.

Về con chung: Bà Nguyễn Thị Mộng T khai có hai con chung tên là Trần Chí T1, sinh ngày 25/6/2008 và Trần An N1, sinh ngày 02/10/2017; bà T yêu cầu là người trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Trần Chí T1, Trần An N1 và không yêu cầu ông N cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Bà Nguyễn Thị Mộng T khai không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre phát biểu ý kiến:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng với quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; nguyên đơn bà Nguyễn Thị Mộng T thực hiện đúng quy định tại Điều 70 và Điều 71 của Bộ luật tố tụng dân sự, bị đơn ông Trần Hữu N thực hiện chưa đúng quy định tại Điều 70 và Điều 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung giải quyết vụ án: Căn cứ các Điều 56, 81, 82, 83 và Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; đề nghị Hội đồng xét xử:

- Chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Thị Mộng T về việc ly hôn với ông Trần Hữu N.

- Về con chung: Giao cho bà Nguyễn Thị Mộng T là người trực tiếp nuôi con chung tên Trần Chí T1, sinh ngày 25/6/2008 và Trần An N1, sinh ngày 02/10/2017. Ghi nhận việc bà Nguyễn Thị Mộng T không yêu cầu ông Trần Hữu N cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung: Bà Nguyễn Thị Mộng T khai không có nên Tòa án không xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng:

- Bà Nguyễn Thị Mộng T khởi kiện ông Trần Hữu N về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con. Hiện nay, ông Trần Hữu N, sinh năm 1985; cư trú tại: Ấp H, xã S, huyện G, tỉnh Bến Tre nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

- Ngày 22 tháng 5 năm 2020, bà Nguyễn Thị Mộng T có đơn đề nghị Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre xét xử vắng mặt. Căn cứ vào khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bà Nguyễn Thị Mộng T.

- Ông Trần Hữu N là bị đơn được Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre triệu tập hợp lệ đến phiên tòa xét xử lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt. Căn cứ vào khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt ông Trần Hữu N.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Ngày 12/9/2008, Ủy ban nhân dân xã S, huyện G, tỉnh Bến Tre cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn cho bà Nguyễn Thị Mộng T và ông Trần Hữu N nên quan hệ hôn nhân giữa bà Nguyễn Thị Mộng T và ông Trần Hữu N là hợp pháp. Quá trình vợ chồng sống chung hạnh phúc thời gian đầu đến năm 2017 phát sinh mâu thuẫn do hai bên bất đồng quan điểm sống nên dẫn đến mâu thuẫn, mất lòng tin với nhau; vợ chồng thường xuyên cãi nhau và ông N bỏ nhà đi cho đến nay; do đó, ông N đã vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 19 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014: “Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình”. Bà T xác định tình cảm vợ chồng không còn với ông N và không muốn hàn gắn tình cảm vợ chồng nên không còn khả năng đoàn tụ. Điều này chứng tỏ tình trạng hôn nhân giữa bà T và ông N đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Xét yêu cầu ly hôn của bà T có căn cứ và phù hợp theo quy định tại Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên có cơ sở chấp nhận.

[3] Về việc nuôi con: Bà Nguyễn Thị Mộng T khai có hai con chung tên là Trần Chí T1, sinh ngày 25/6/2008 và Trần An N1, sinh ngày 02/10/2017; hiện nay, cháu T1 và cháu N1 đang sống với bà T. Bà T yêu cầu là người được tiếp tục nuôi dưỡng cháu T1 và cháu N1. Tuy nhiên, việc giao con cho ai nuôi dưỡng cần phải xem xét mọi mặt và quyền lợi của con chưa thành niên. Do ông N vắng mặt trong quá trình thụ lý giải quyết vụ án và tại phiên tòa nên không có ý kiến về việc nuôi dưỡng con chung. Xét yêu cầu được nuôi con của bà T là phù hợp nguyện vọng của cháu T1 được sống với mẹ và quy định tại khoản 3 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014: “Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con”. Căn cứ Điều 58 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử xét thấy có cơ sở chấp nhận để bà T là người trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.

[4] Về cấp dưỡng nuôi con: Bà Nguyễn Thị Mộng T không yêu cầu ông Trần Hữu N cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét đóng góp chi phí nuôi con đối với ông N.

[5] Về tài sản chung, nợ chung: Bà Nguyễn Thị Mộng T khai không có nên Tòa án không xem xét giải quyết.

[6] Về án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch: Căn cứ vào Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án thì bà Nguyễn Thị Mộng T phải chịu là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng.

[7] Tại phiên tòa, đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; các Điều 51, 56, 57 và Điều 58 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Mộng T đối với ông Trần Hữu N. Bà Nguyễn Thị Mộng T được ly hôn với ông Trần Hữu N.

2. Về việc nuôi con và cấp dưỡng nuôi con: Giao cho bà Nguyễn Thị Mộng T là người trực tiếp nuôi con chung tên Trần Chí T1, sinh ngày 25/6/2008 và Trần An N1, sinh ngày 02/10/2017. Ghi nhận việc bà Nguyễn Thị Mộng T không yêu cầu ông Trần Hữu N cấp dưỡng nuôi con. Ông Trần Hữu N là người không trực tiếp nuôi con được quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung mà không ai được cản trở. Vì lợi ích của con chung sau này, một hoặc cả hai bên có quyền làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết việc thay đổi nuôi con và việc cấp dưỡng nuôi con. Trong trường hợp có căn cứ theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì trên cơ sở lợi ích của con, cá nhân, cơ quan, tổ chức sau có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con: Người thân thích; Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình; Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em; Hội liên hiệp phụ nữ.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Bà Nguyễn Thị Mộng T khai không có nên Tòa án không xem xét giải quyết.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch: Bà Nguyễn Thị Mộng T phải nộp là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng theo biên lai thu số 0007549 ngày 16 tháng 12 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre.

5. Đương sự có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; đương sự không có mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

6. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

196
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 25/2020/HNGĐ-ST ngày 25/05/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:25/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giồng Trôm - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về