Bản án 25/2020/HNGĐ-ST ngày 16/09/2020 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚC THỌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 25/2020/HNGĐ-ST NGÀY 16/09/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 16 tháng 9 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phúc Thọ, Thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án Dân sự thụ lý số: 153/2020/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 7 năm 2020 về việc tranh chấp ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 30/2020/QĐXX-HNGĐ ngày 14/8/2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 19/2020/QĐ- HNGĐ ngày 31/8/2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Đỗ Thị Th, sinh năm 1996. Địa chỉ: Thôn Hiệp Thuận 3, xã Hiệp Thuận, huyện Phúc Thọ, Thành phố Hà Nội; có mặt.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Hữu H, sinh năm 1991. Địa chỉ: Thôn Hiệp Thuận 3, xã Hiệp Thuận, huyện Phúc Thọ, Thành phố Hà Nội; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện và các lời khai tiếp theo, nguyên đơn là chị Đỗ Thị Th trình bày: Chị kết hôn với anh Nguyễn Hữu H trên cơ sở tự nguyện và được Ủy ban nhân dân xã Hiệp Thuận, huyện Phúc Thọ đăng ký năm 2013. Vợ chồng sống hạnh phúc thời gian ngắn, nguyên nhân do anh H không chịu làm ăn, thường xuyên đi chơi đến đêm mới về, chị khuyên nhủ anh H thì anh đánh chị, túm tóc chị. Từ tháng 06/2020 chị đã cùng 02 con dọn ra quán ở. Vợ chồng sống ly thân, không còn quan tâm đến nhau, chị đề nghị Tòa án cho chị được ly hôn anh H. Về con chung: Vợ chồng có 03 con chung cháu Nguyễn Hữu Đức, sinh ngày 13/7/2013; cháu Nguyễn Thị Bảo Trâm, sinh ngày 11/7/2018 và cháu Nguyễn Thị An Nhiên, sinh ngày 11/7/2018. Ly hôn, chị nhận nuôi cháu Trâm, cháu Nhiên; anh H nuôi cháu Đức. Chị không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung.Về tài sản chung, nợ chung: Không có - Bị đơn: Anh Nguyễn Hữu H đã được Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng nhưng anh H vắng mặt tất cả các lần Tòa án báo gọi nên không có bản tự khai và không tiến hành hòa giải được. Khi Tòa án đến làm việc tại gia đình anh H, anh H trình bày: Anh đồng ý ly hôn, anh nhận nuôi cháu Đức và xác định vợ chồng không có tài sản, nợ chung nhưng anh không ký biên bản và không đến Tòa làm việc.

- Tại phiên tòa, chị Th giữ nguyên yêu cầu được ly hôn. Anh H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ 02 lần nhưng đều vắng mặt không có lý do.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phúc Thọ tại phiên tòa phát biểu ý kiến: Trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã tuân thủ theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Quan điểm giải quyết vụ án: Hôn nhân giữa chị Đỗ Thị Th và anh Nguyễn Hữu H là hợp pháp. Xuất phát từ việc mâu thuẫn vợ chồng, vợ chồng đang sống ly thân. Cuộc sống giữa chị Thịnh, anh H không thể chung sống cùng nhau, mục đích hôn nhân không đạt được, do đó chị Th xin ly hôn anh H là có căn cứ theo khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình. Về con chung, giao cháu Nguyễn Hữu Đức cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng; giao cháu Nguyễn Thị Bảo Trâm và cháu Nguyễn Thị An Nhiên cho chị Th trực tiếp nuôi dưỡng. Về tài sản chung, nợ chung: Không có. Chị Th phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về tố tụng: Nguyên đơn là chị Đỗ Thị Th có đơn xin ly hôn với anh Nguyễn Hữu H có đăng ký hộ khẩu thường trú tại xã Hiệp Thuận, huyện Phúc Thọ và quan hệ tranh chấp về ly hôn nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Phúc Thọ theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 3 Điều 36, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Quan hệ hôn nhân giữa chị Đỗ Thị Th và anh Nguyễn Hữu H trên cơ sở kết hôn tự nguyện, đăng ký vào ngày 20/9/2013 tại Ủy ban nhân dân xã Hiệp Thuận, huyện Phúc Thọ nên được xác định là hôn nhân hợp pháp theo quy định khoản 1 Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình.

Căn cứ vào lời trình bày của đương sự, cũng như các tài liệu xác minh thể hiện: Mâu thuẫn vợ chồng giữa chị Thịnh, anh H từ năm 2019. Theo chị Th do anh H không tu trí làm ăn, không còn quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ chị dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi nhau, từ tháng 06/2020 sống ly thân. Quá trình giải quyết, anh H đồng ý ly hôn nhưng không ký biên bản, không có bản tự khai, không đến Tòa án hòa giải như vậy thể hiện anh H cũng không mong muốn vợ chồng đoàn tụ xây dựng gia đình hạnh phúc, bền vững. Xét thấy, quan hệ vợ chồng giữa chị Th và anh H không còn gắn bó, vợ chồng không chung sống cùng nhau, không cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình nên đã vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt, cần áp dụng Điều 56 luật Hôn nhân và gia đình xử cho chị Th được ly hôn anh H.

Về con chung: Có 03 con chung là cháu Nguyễn Hữu Đức, sinh ngày 13/7/2013; cháu Nguyễn Thị Bảo Trâm, sinh ngày 11/7/2018 và cháu Nguyễn Thị An Nhiên, sinh ngày 11/7/2018. Hiện nay, cháu Đức đang ở với anh H; cháu Trâm, cháu Nhiên đang ở với chị Thịnh. Ly hôn, anh H nhận nuôi cháu Đức. Hơn nữa, đây cũng là nguyện vọng của cháu Đức. Cháu Trâm, cháu Nhiên đều dưới 36 tháng tuổi. Theo quy định khoản 2, khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình, cần giao cháu Đức cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng và giao cháu Trâm, cháu Nhiên cho chị Th trực tiếp nuôi dưỡng.

Về cấp dưỡng nuôi con chung, chị Th không yêu cầu nên tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con đối với anh H cho đến khi có yêu cầu mới hoặc khi có quyết định khác của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Về tài sản chung, về nợ chung: Chị Thịnh, anh H đều xác định không có.

[3]. Về án phí: Chị Đỗ Thị Th phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 147, Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Xử:

1. Chấp nhận đơn khởi kiện về việc yêu cầu ly hôn của chị Đỗ Thị Th.

- Chị Đỗ Thị Th được ly hôn anh Nguyễn Hữu H.

- Về con chung: Giao cháu Nguyễn Hữu Đức, sinh ngày 13/7/2013 cho anh Nguyễn Hữu H trực tiếp nuôi dưỡng; giao cháu Nguyễn Thị Bảo Trâm, sinh ngày 11/7/2018 và cháu Nguyễn Thị An Nhiên, sinh ngày 11/7/2018 cho chị Đỗ Thị Th trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi hoặc khi có quyết định khác của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.

Chị Đỗ Thị Th không yêu cầu nên tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung đối với anh Nguyễn Hữu H cho đến khi có yêu cầu mới hoặc khi có quyết định khác của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Chị Thịnh, anh H đều có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

2. Về án phí: Chị Đỗ Thị Th phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0003184 ngày 02/7/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phúc Thọ, Thành phố Hà Nội.

3. Chị Th có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh H có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

168
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 25/2020/HNGĐ-ST ngày 16/09/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:25/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phúc Thọ - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về