Bản án 25/2020/HNGĐ-ST ngày 10/12/2020 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BA ĐỒN, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 25/2020/HNGĐ-ST NGÀY 10/12/2020 VỀ LY HÔN

Ngày 10 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã B, tỉnh Quảng Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 83/2020/TLST-HNGĐ ngày 23 tháng 6 năm 2020 về việc “Ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 25/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 27 tháng 10 năm 2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Nguyễn Chí T, năm 1968 Nơi cư trú: TDP M, phường Q, thị xã B, tỉnh Quảng Bình. Có mặt.

2. Bị đơn: Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1972 Nơi cư trú: TDP M, phường Q, thị xã B, tỉnh Quảng Bình. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện về việc ly hôn ngày 28/7/2019, bản tự khai, nguyên đơn anh Nguyễn Chí T trình bày: anh và chị Nguyễn Thị T có quá trình tìm hiểu và đi đến hôn nhân là hoàn toàn tự nguyện, đã đăng ký kết hôn vào ngày 28/7/1993 tại UBND xã Q, huyện Q (nay là phường Q, thị xã B), tỉnh Quảng Bình. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc được 08 năm. Đến năm 2011 thì vợ chồng bắt đầu xẩy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân là do chị T chơi lô đề, dẫn đến nợ nần, anh đã nhiều lần khuyên bảo nhưng chị T vẫn không thay đổi, dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng. Vì vậy, vợ chồng sống ly thân từ cuối năm 2011 cho đến nay, không ai quan tâm đến ai. Nay anh xác định vợ chồng không còn tình cảm, không thể tiếp tục chung sống với nhau được nữa nên anh kiên quyết xin được ly hôn với chị Nguyễn Thị T. Quá trình chung sống vợ chồng anh chị có 03 con chung: Nguyễn Thị Tú L, sinh năm 1995; Nguyễn Thị Hạ L, sinh năm 1998; Nguyễn Thị Mỹ T, sinh ngày 22/8/2008. Hiện tại 02 con Nguyễn Thị Tú L, Nguyễn Thị Hạ V đã trưởng thành, có khả năng tự lao động nuôi sống bản thân nên không yêu cầu Toà án giải quyết; đối với con Nguyễn Thị Mỹ T, hiện đang sống cùng anh nên nếu vợ chồng ly hôn thì nguyện vọng của anh xin được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con Nguyễn Thị Mỹ T và không yêu cầu chị T cấp dưỡng tiền nuôi con. Quá trình chung sống vợ chồng có một số tài sản chung nhưng anh không yêu cầu Toà án giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng gồm: Thông báo thụ lý vụ án, các thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, giấy triệu tập nhiều lần cho chị T nhưng chị T không có mặt tại Tòa án để giải quyết vụ án. Kết quả xác minh tại Uỷ ban nhân dân phường Q, Công an phường Q và lời khai của ông Nguyễn Xuân K (bố chị T) cho biết: Chị T đã biết việc anh T làm đơn ly hôn chị nhưng hiện nay chị đang làm ăn, sinh sống ở miền nam, do công việc nên chị T không thể trực tiếp đến Toà án để giải quyết việc ly hôn với anh T được. Chị T, cũng đã nhiều lần liên lạc đến Toà án, đồng thời có Đơn trình bày (ngày 30/12/2019) đề nghị Toà án kéo dài thời gian giải quyết vụ án và hứa sẽ chấp hành theo Giấy triệu tập và cung cấp địa chỉ nơi cư trú cho Toà án. Tuy nhiên, qua xác minh thì chị T không cư trú tại địa chỉ mà chị cung cấp nênToà án đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng theo quy định. Ngày 27/10/2020, Toà án Quyết định đưa vụ án ra xét xử và triệu tập anh T, chị T đến phiên toà vào ngày 12/11/2020, nhưng chị T vắng mặt nên Toà án phải hoãn phiên toà. Ngày 10/12/2020, Toà án mở phiên toà lần hai, tiếp tục triệu tập các bên đương sự đến tham gia phiên toà nhưng chị T vẫn vắng mặt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã B tham gia phiên toà phát biểu quan điểm:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký là đúng quy định của pháp luật, việc chấp hành của nguyên đơn kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án không có gì sai phạm, bị đơn không chấp hành việc thông báo, triệu tập của Toà án gây khó khăn cho quá trình giải quyết vụ án.

- Về nội dung: Đề nghị căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng Dân sự, xét xử vắng mặt chị Nguyễn Thị T; căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56; Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình, chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, xử cho anh Nguyễn Chí T được ly hôn chị Nguyễn Thị T, giao con chung Nguyễn Thị Mỹ T, sinh ngày 22/8/2008 cho anh T trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng, chị Tý không phải cấp dưỡng tiền nuôi con; về tài sản chung: Không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, căn cứ vào kết quả hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng:

- Về thẩm quyền: Anh Nguyễn Chí T có đơn yêu cầu ly hôn chị Nguyễn Thị T, hiện tại anh Thành, chị Tý có đăng ký hộ khẩu thường trú tại phường Quảng Thọ, thị xã B, tỉnh Quảng Bình. Vì vậy, theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân thị xã B.

- Về sự vắng mặt của bị đơn: Sau khi xem xét các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử, thấy rằng: chị T hoàn toàn biết được việc anh T làm đơn khởi kiện về việc xin ly hôn chị, thông qua việc chị nhiều lần liên lạc đến Toà án và cũng đã có Đơn trình bày, cung cấp địa chỉ nơi cư trú của chị gửi về Toà án. Tuy nhiên, từ tháng 12/2019 cho đến nay chị T không trực tiếp đến Toà án để giải quyết việc ly hôn với anh T. Qua xác minh, chị T cũng không có mặt tại nơi cư trú như chị đã cung cấp. Điều này chứng tỏ chị T cố tình giấu địa chỉ, gây khó khăn cho Toà án trong quá trình giải quyết vụ án. Toà án đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật. Vì vậy, căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng Dân sự, xét xử vắng mặt chị Nguyễn Thị T.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: anh Nguyễn Chí T và chị Nguyễn Thị T kết hôn trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, đã đăng ký kết hôn vào ngày 28/7/1993 tại UBND xã Q, huyện Q (nay là phường Q, thị xã B), tỉnh Quảng Bình. Vì vậy, đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống hạnh phúc được 08 năm, đến năm 2011 vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do chị T chơi lô đề dẫn đến nợ nần, anh T đã nhiều lần khuyên bảo nhưng chị T vẫn không thay đổi nên đến cuối năm 2011, vợ chồng đã sống ly thân từ đó đến nay, không ai quan tâm đến ai. Hiện nay anh T xác định tình cảm vợ chồng không còn nên mong muốn được ly hôn. Xét thấy, vợ chồng anh T, chị T đã sống ly thân từ năm 2011, không ai quan tâm đến ai, tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, cần căn cứ vào khoản 1 Điều 51 và khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và Gia đình, chấp nhận đơn yêu cầu ly hôn của anh Nguyễn Chí T đồng thời xử cho anh T ly hôn với chị T là hoàn toàn phù hợp.

[3]. Về quan hệ con chung: Quá trình chung sống vợ chồng anh chị có 03 con chung: Nguyễn Thị Tú L, sinh năm 1995; Nguyễn Thị Hạ L, sinh năm 1998; Nguyễn Thị Mỹ T, sinh ngày 22/8/2008. Xét thấy, 02 con Nguyễn Thị Tú L, Nguyễn Thị Hạ V đã trưởng thành, có khả năng tự lao động nuôi sống bản thân, anh T không yêu cầu Toà án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét; đối với con Nguyễn Thị Mỹ T, hiện đang sống cùng anh T và cháu cũng có nguyện vọng được tiếp tục ở với anh T nếu bố mẹ ly hôn nên cần giao con Nguyễn Thị Mỹ T, sinh ngày 22/8/2008 cho anh T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng; chị T không phải cấp dưỡng tiền nuôi con do anh T không có yêu cầu.

[4]. Về quan hệ tài sản: Quá trình chung sống vợ chồng có một số tài sản chung nhưng anh T không yêu cầu Toà án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5]. Về án phí: anh Nguyễn Chí T phải nộp tiền án phí ly hôn theo đúng quy định của pháp luật để sung vào công quỹ Nhà nước.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 271, khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 57; khoản 1 và khoản 3 Điều 81; Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và Gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, và sử dụng án phí và lệ phí Toà án ngày 30/12/2016:

1. Xét xử vụ án vắng mặt bị đơn chị Nguyễn Thị T 2. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho anh Nguyễn Chí T được ly hôn với chị Nguyễn Thị T

3. Về quan hệ con chung: Xử giao con Nguyễn Thị Mỹ T, sinhh ngày 22/8/2008 cho anh T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng; chị T không phải cấp dưỡng tiền nuôi con.

Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ qua lại thăm nom con mà không được ai cản trở.

4. Về tài sản chung: Không xem xét 5. Về án phí dân sự sơ thẩm: Xử buộc anh Nguyễn Chí T phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí ly hôn để sung vào công quỹ Nhà nước nhưng được trừ số tiền tạm ứng án phí anh T đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã B theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0002430, ngày 25/7/2019.

Án xử sơ thẩm, nguyên đơn có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án của Toà án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

279
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 25/2020/HNGĐ-ST ngày 10/12/2020 về ly hôn

Số hiệu:25/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Ba Đồn - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 10/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về