Bản án 25/2020/HNGĐ-ST ngày 08/09/2020 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ GIÁO, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 25/2020/HNGĐ-ST NGÀY 08/09/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 08 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 213/2020/TLST- HNGĐ ngày 10 tháng 6 năm 2020 về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 42/2020/TLST- HNGĐ ngày 20 tháng 8 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Phạm Thị H, sinh năm 1985; địa chỉ: Số nhà 553, ấp PT1, xã AT, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương. Có đơn xin vắng mặt.

- Bị đơn: Ông Đỗ VH, sinh năm 1987; địa chỉ: Tổ 4, ấp 4, xã TH, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương. Có đơn xin vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản lấy lời khai, biên bản công khai tài liệu chứng cứ nguyên đơn bà Phạm Thị H trình bày:

- Về hôn nhân: Bà và ông Đỗ VH chung sống với nhau từ năm 2013, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân (UBND) xã TH, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương vào ngày 20/5/2013, trên cơ sở được tìm hiểu tự nguyện. Cuộc sống vợ chồng thời gian đầu thì có hạnh phúc nhưng sau đó thì phát sinh nhiều mâu thuẫn, do tính tình vợ chồng không hợp nhau, bất đồng quan điểm sống, thường xuyên cãi vã nhau, ông VH không lo làm ăn, chỉ thích chơi bời lêu lỏng, ông bà đã sống ly thân với nhau từ đầu năm 2019 cho đến nay, hiện tại ông VH đang đi chấp hành án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Nay nhận thấy mâu thuẫn gia đình đã đến mức trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, không thể tiếp tục sống chung với nhau được nữa nên bà xin được ly hôn với ông Đỗ VH.

- Về con chung: Trong quá trình chung sống ông bà có 01 con chung tên Đỗ Hoàng K, sinh ngày 11/12/2013. Khi ly hôn bà xin được nuôi con chung, không yêu cầu ông VH phải cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung: Bà H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại biên bản lấy lời khai bị đơn ông Đỗ VH trình bày:

- Về hôn nhân: Ông và bà Phạm Thị H chung sống với nhau từ năm 2013, có đăng ký kết hôn tại UBND xã TH, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương vào ngày 20/5/2013, trên cơ sở được tìm hiểu tự nguyện. Cuộc sống vợ chồng thời gian đầu thì có hạnh phúc nhưng sau đó thì phát sinh nhiều mâu thuẫn do ông không chăm lo cho cuộc sống gia đình. Nếu bà H xin ly hôn với ông để đi xây dựng hạnh phúc mới thì ông đồng ý ly hôn.

- Về con chung: Trong quá trình chung sống vợ chồng ông có 01 con chung là Đỗ Hoàng K, sinh ngày 11/12/2013. Khi ly hôn thì ông đồng ý cho bà H được nuôi con chung, do hiện nay ông đang đi chấp hành án nên ông không có điều kiện để cấp dưỡng nuôi con, khi nào chấp hành án xong đi làm thì ông sẽ tự nguyện cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Phú Giáo tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

- Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử (HĐXX) nghị án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và việc chấp hành pháp luật tố tụng của những người tham gia tố tụng là đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về nội dung: Nguyên đơn và bị đơn chung sống với nhau, có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp, quá trình chung sống nảy sinh nhiều mâu thuẫn, không thể hàn gắn được, đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Phạm Thị H đối với ông Đỗ VH; về con chung: Đề nghị HĐXX giao con chung Đỗ Hoàng K, sinh ngày 11/12/2013 cho bà H nuôi dưỡng, ghi nhận sự tự nguyện của bà H về việc không yêu cầu ông VH cấp dưỡng nuôi con; về tài sản chung, nợ chung: Đương sự không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát về thủ tục tố tụng, về nội dung vụ án HĐXX nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Đây là vụ án xin ly hôn mà bị đơn cư trú tại ấp 4, xã TH, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương và nguyên đơn đề nghị Tòa án nhân dân huyện Phú Giáo giải quyết. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, HĐXX xét thấy vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương.

[2] Về sự vắng mặt của nguyên đơn và bị đơn: Nguyên đơn bà Phạm Thị H và bị đơn ông Đỗ VH có đơn xin xét xử vắng mặt, do đó căn cứ vào khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

[3] Về hôn nhân: Bà Phạm Thị H và ông Đỗ VH là những người có đủ điều kiện kết hôn, chung sống vợ chồng với nhau trên cơ sở tìm hiểu tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND xã TH, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương vào ngày 20/5/2013 nên đây là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Quá trình chung sống phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên đơn cho rằng do tính tình vợ chồng không hợp nhau, bất đồng quan điểm sống, thường xuyên cãi vã nhau, ông VH không lo làm ăn, chỉ thích chơi bời lêu lỏng, ông bà đã sống ly thân với nhau từ đầu năm 2019 cho đến nay, hiện tại ông VH đang đi chấp hành án. Ông VH thừa nhận vợ chồng có mâu thuẫn do ông không chăm lo cho cuộc sống gia đình, nếu bà H xin ly hôn với ông để đi xây dựng hạnh phúc mới thì ông đồng ý ly hôn.

[4] Tại Biên bản xác minh ngày 21/8/2020 đại diện chính quyền địa phương xã TH, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương không nắm rõ, chỉ biết là bà H và ông VH không sống chung với nhau, hiện nay ông VH bị nghiện và đang đi chấp hành án.

[5] HĐXX xét thấy, mâu thuẫn vợ chồng giữa nguyên đơn bà Phạm Thị H và bị đơn ông Đỗ VH đã trầm trọng, ông VH mong muốn bà H cho ông một cơ hội nhưng bà H không muốn quay về sống chung với ông VH. Nguyên đơn xin ly hôn là hoàn toàn tự nguyện và có căn cứ nên HĐXX chấp nhận cho nguyên đơn và bị đơn ly hôn theo quy định tại các Điều 51, 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[6] Về con chung: Căn cứ vào lời khai của đương sự, bản sao giấy khai sinh, bản sao sổ hộ khẩu xác định nguyên đơn và bị đơn có 01 con chung Đỗ Hoàng K, sinh ngày 11/12/2013, bà H xin được nuôi con chung, ông VH cũng đồng ý cho bà H nuôi con nên HĐXX ghi nhận.

Về cấp dưỡng nuôi con: Bà H không yêu cầu ông VH phải cấp dưỡng nuôi con Đỗ Hoàng K nên HĐXX ghi nhận.

[7] Về tài sản chung, nợ chung: Đương sự không yêu cầu Toà án giải quyết nên HĐXX không đặt ra xem xét.

[8] Xét đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát là có căn cứ nên HĐXX xem xét chấp nhận.

[9] Về án phí sơ thẩm: Đương sự phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 266, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Các Điều 9, 51, 56, 57, 81, 82, 83 và 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Phạm Thị H đối với bị đơn ông Đỗ VH về việc “Tranh chấp ly hôn”.

1. Về hôn nhân: Bà Phạm Thị H được ly hôn với ông Đỗ VH.

2. Về con chung: Giao con chung Đỗ Hoàng K, sinh ngày 11/12/2013 cho bà Phạm Thị H trực tiếp nuôi dưỡng. Ghi nhận sự tự nguyện của bà H về việc không yêu cầu ông VH phải cấp dưỡng nuôi con.

Không ai được cản trở quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung của ông Đỗ VH. Vì quyền lợi hợp pháp, chính đáng của con chưa thành niên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con khi đương sự có đơn yêu cầu theo quy định của pháp luật.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

4. Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Bà Phạm Thị H phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) đã nộp trước đây theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án AA/2016/0043343 ngày 10/6/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương.

5. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật./.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

263
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 25/2020/HNGĐ-ST ngày 08/09/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:25/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Giáo - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về