Bản án 25/2019/HS-ST ngày 30/09/2019 về tội cố ý gây thương tích  

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HƯƠNG KHÊ, TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 25/2019/HS-ST NGÀY 30/09/2019 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 30 tháng 9 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 24/2019/TLST- HS ngày 10/9/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 23/2019/QĐXXST- HS ngày 19/9/2019 đối với các bị cáo:

1. Phan Văn T; sinh ngày 26/4/1993; nơi sinh: Xã G, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; nơi cư trú: Xóm X, xã G, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 08/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan Quang M và bà Nguyễn Thị H; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.

2. Phan Huy H; sinh ngày 14/02/1980; nơi sinh: Xã G, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; nơi cư trú: Xóm X, xã G, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn 08/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan Quang M và bà Nguyễn Thị H; có vợ là Trương Thị T và 03 đứa con; tiền án, tiền sự: Không; bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.

- Bị hại: Anh Phạm Văn H1, sinh năm: 1995; địa chỉ: Xóm Y, xã G, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Ông Phan Quang M, sinh năm: 1954; địa chỉ: Xóm X, xã G, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; có mặt.

Anh Phạm Xuân L, sinh năm 1980, địa chỉ: Xóm L, xã G, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; có mặt.

- Người làm chứng:

Anh Lưu Đức Q, sinh năm 1993 (vắng mặt); anh Phùng Công S, sinh năm 1995 (có mặt); anh Đặng Quang C, sinh năm 1995 (vắng mặt); bà Trần Thị T, sinh năm 1968 (vắng mặt), đều địa chỉ: Xóm K, xã G, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh.

Anh Nguyễn Thanh Tùng, sinh năm 1994; địa chỉ: Xóm H, xã G, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 21 giờ ngày 07/4/2019, Phan Văn T đi cùng với Phạm Anh G đến nhà anh Phùng Công S ở xóm K, xã G, huyện H chơi và uống bia. Tại đây, ngoài T, G và S còn có mặt Phạm Văn H1, Nguyễn Thanh T, Đặng Quang C và Lưu Đức Q đều trú tại xã G. Quá trình ngồi uống bia, giữa Phan Văn T và Phạm Văn H xẩy ra mâu thuẫn, thách thức đánh nhau nên T gọi điện thoại cho anh trai là Phan Huy H đến để can thiệp. Sau khi gọi cho H, giữa T và Phạm Văn H1 tiếp tục xẩy ra mâu thuẫn đánh nhau. Khi đến, thấy em trai đang đánh nhau nên H cũng xông vào dùng tay đấm vào người H1 nhưng được những người có mặt tại nhà S can ngăn. Sau đó, T bảo H lấy xe mô tô của H chở mình đến nhà anh Phạm Xuân L (có mối quan hệ họ hàng với H và T) để nhờ anh L đến lấy xe mô tô của T về giúp, nhưng anh L nằm ngủ không đi. Lúc này T thấy chiếc rựa mồng dài khoảng 70cm để sát mép sân nhà anh L nên lấy để trên ống xả xe mô tô của H rồi cùng H quay lại nhà anh S. Khoảng 22 giờ cùng ngày khi vừa đến cổng thì gặp Phạm Văn H1 điều khiển xe từ trong nhà S đi ra, đâm vào xe của H và T nên hai bên tiếp tục xẩy ra xô xát, đánh nhau. T dùng rựa mồng chém vào cẳng chân trái và phải của H1, rồi cùng với H vật lộn, giằng co đánh nhau với H1. Lúc này, những người có mặt tại nhà S can ngăn nên H và T điều khiển xe mô tô về nhà. Do bức xúc vì bị đánh, Phạm Văn H1 lấy một chiếc liềm tại nhà S, rồi điều khiển xe mô tô đi đến nhà H để đánh nhau. Khi đến nơi thì H1 đi vào sân nhà H kêu la để tìm H và T. Nghe tiếng ồn ào nên ông Phan Quang M là bố đẻ của H và T nhà bên cạnh đi sang sân nhà H xem xét sự việc. Ông M gặp H1 tại vị trí sân nhà H và bị H1 dùng tay đánh vào người. Nghe tiếng bố kêu bị đánh, H đi từ trong nhà ra dùng tay đấm vào người H1, rồi dìu ông M về. Biết bố bị đánh nên T vào nhà bếp lấy 01 con dao canh đi ra khu vực nhà kho bên cạnh nhà H thì gặp H1. T dùng dao chém 02 nhát vào vùng mu bàn tay trái của H1. Hậu quả Phạm Văn H1 bị thương được đưa đi cấp cứu và điều trị từ ngày 08/4/2019 đến ngày 12/4/2019 thì ra viện.

Tại Bản kết luận giám định pháp y số 49/TgT ngày 02/5/2019 của Trung tâm Pháp y và giám định y khoa Hà Tĩnh, kết luận thương tích của anh Phạm Văn H1:

Mu bàn tay trái 02 sẹo vết thương: Sẹo phía trên cách nếp lằn cổ tay 01cm kích thước 06cm x 0,2cm. Đứt khối gân duỗi ngón II, III bàn tay trái, đã phẫu thuật nối gân. Sẹo phía dưới kích thước 1,3cm x 0,2cm. Hạn chế ít động tác khớp cổ tay.

Mặt trong 1/3 dưới cẳng chân phải sẹo vết thương kích thước 06cm x 0,2cm; mặt trước 1/3 dưới cẳng chân trái sẹo vết thương kích thước 04cm x 0,3cm. Đứt gân cơ chày trước, mẻ xương chày, đã phẫu thuận nối gân cơ.

Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 18%.

Vật chứng vụ án: 01 con dao dài 44cm, lưỡi bằng sắt dài 30cm, cán bằng gỗ dài 14cm; 01 cái liềm dài 32,5cm, lưỡi bằng sắt dài 19,5cm, cán gỗ tròn dài 13cm, Cơ quan điều tra đã chuyển Chi cục THA dân sự bảo quản chờ xử lý.

Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo Phan Văn T và Phan Huy H đã bồi thường cho anh Phạm Văn H1 số tiền 56.000.000đ, nay anh H1 không yêu cầu bồi thường gì thêm.

Tại Cáo trạng số 24/CT-VKS-HK ngày 04/9/2019 của Viện trưởng VKSND huyện Hương Khê truy tố bị cáo Phan Văn T và Phan Huy H về tội Cố ý gây thương tích theo điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

Bị cáo Phan Văn T, Phan Huy H khai nhận hành vi của mình như nội dung trên. Các bị cáo đồng ý với Cáo trạng truy tố và không có ý kiến gì tranh luận. Lời nói sau cùng của các bị cáo mong được Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt và được cải tạo tại địa phương.

Bị hại Phạm Văn H1 đề nghị làm rõ ngoài hai bị cáo T và H còn có Phạm Anh G cùng tham gia đánh anh; đồng thời, đề nghị xét xử nghiêm các bị cáo theo quy định của pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Phan Văn T, Phan Huy H về tội Cố ý gây thương tích. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; (đối với H áp dụng thêm Điều 54; Điều 65) Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Phan Văn T từ 24 đến 30 tháng tù; xử phạt bị cáo Phan Huy H từ 18 đến 24 tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách từ 36 đến 48 tháng; đồng thời đề nghị xử lý vật chứng và án phí theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Phan Văn T, Phan Huy H tự nguyện khai nhận hành vi phạm tội của mình. Đối chiếu lời khai nhận tội của các bị cáo với lời khai của bị hại, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ đã thu thập có trong hồ sơ vụ án được xem xét công khai tại phiên tòa, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định: Vào khoảng 21 giờ ngày 07/4/2019, trong quá trình ngồi uống rượu bia tại nhà anh Phùng Công S thuộc xóm K, xã G, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh, giữa Phan Văn T và Phạm Văn H1 xẩy ra mâu thuẫn đánh nhau, nên T gọi cho Phan Huy H là anh trai đến để can thiệp. Khi đến, thấy em trai đang đánh nhau nên H cũng xông vào dùng tay đấm vào người H1 nhưng được mọi người can ngăn. Sau đó, T và H chở nhau về nhà anh Phạm Xuân L, T lấy 01 chiếc rựa mồng tại nhà anh L để trên ống xả xe mô tô của H rồi cùng H quay lại nhà anh S. Khoảng 22 giờ cùng ngày khi vừa đến cổng thì gặp Phạm Văn H1 điều khiển xe từ trong nhà S đi ra, đâm vào xe của H và T nên hai bên tiếp tục xẩy ra xô xát, đánh nhau. T dùng rựa mồng chém vào cẳng chân trái và phải của H1, rồi cùng với H vật lộn, giằng co đánh nhau với H1. Sau đó, T và H đi về nhà mình ở xóm X, xã G thì H1 mang theo 01 cái liềm đi đến sân nhà H gây gỗ. Lúc này ông Phan Quang M (bố đẻ của H, T) ra can ngăn thì bị H1 dùng tay đánh vào người. Thấy vậy, H tiếp tục xông vào đánh H1, T đã dùng dao canh chém 02 nhát vào mu bàn tay trái H1. Hậu quả gây tổn hại sức khỏe cho anh Phạm Văn H1 với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 18%.

[3] Bị cáo Phan Văn T là người trực tiếp dùng rựa mồng và dao canh gây thương tích cho anh Phạm Văn H1. Bị cáo Phan Huy H khi biết và chứng kiến việc đánh nhau đã cùng tham gia, thống nhất ý chí gây thương tích cho anh Phạm Văn H1 nên các bị cáo T, H đều phải chịu trách nhiệm đồng phạm do hậu quả gây ra. Bị cáo T dùng rựa mồng và dao canh gây thương tích cho bị hại là thuộc trường hợp “Dùng hung khí nguy hiểm” quy định tại điểm a khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự và hậu quả gây tổn thương cơ thể cho bị hại là 18%, do đó hành vi của Phan Văn T, Phan Huy H đã cấu thành Tội cố ý gây thương tích theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, Cáo trạng của Viện trưởng VKSND huyện Hương Khê truy tố các bị cáo Phan Văn T, Phan Huy H theo điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ, ảnh hưởng đến an ninh trật tự trên địa bàn, do đó cần phải xử lý nghiêm mới đảm bảo tính giáo dục, răn đe và phòng ngừa tội phạm.

[5] Các bị cáo đã bồi thường thiệt hại đầy đủ cho bị hại; khai báo thành khẩn nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị hại cũng có một phần lỗi (khi mang theo liềm đến nhà bị cáo Hoàng gây gỗ, đánh ông Phan Quang M) nên các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ khác quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Do đó cần xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo khi quyết định hình phạt.

[6] Xét vị trí vai trò, tính chất hành vi của các bị cáo trong vụ án, xét thấy Phan Văn T là người trực tiếp có mâu thuẫn, gọi diện thoại cho H đến can thiệp và thương tích của bị hại là do bị cáo trực tiếp gây ra, nên hành vi của bị cáo T giữ vai trò chính, tính chất cao hơn so với bị cáo H, do đó cần phải cách ly bị cáo khởi đời sống xã hội một thời gian khoảng 24 tháng tù là phù hợp. Đối với Phan Huy H có vai trò, tính chất hành vi thấp hơn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ cần áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự xử phạt tù bị cáo dưới mức khởi điểm của khung hình phạt; đồng thời bị cáo có nhân thân tốt, lần đầu phạm tội, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú rõ ràng, nên cần áp dụng Điều 65 Bộ luật Hình sự cho bị cáo hưởng án treo như lời đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là phù hợp.

[7] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát đề nghị về điều luật, tội danh, mức hình phạt, xử lý vật chứng, là có căn cứ, phù hợp nên được chấp nhận.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại anh Phạm Văn H1 không có yêu cầu bồi thường gì thêm, nên Hội đồng xét xử miễn xét.

[9] Xử lý vật chứng: 01 con dao canh dài 44cm bị cáo T sử dụng và 01 cái liềm dài 32,5cm anh Phạm Văn H1 sử dụng đánh nhau là vật chứng không còn giá trị, cần tịch thu và tiêu hủy theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Đi với chiếc rựa mồng dài khoảng 70cm bị cáo T sử dụng gây thương tích cho Hùng trước cổng nhà S, Cơ quan điều tra truy tìm nhưng không thu hồi được; chiếc xe mô tô nhãn hiệu Sirius biển kiểm soát 38B1 -011.44 bị cáo H sử dụng là của ông Phan Quang M cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu, không ai có khiếu nại gì nên miễn xét.

[10] Bị hại Phạm Văn H1 trình bày ngoài Phan Văn T và Phan Huy H thì còn có Phạm Anh G tham gia gây thương tích cho bị hại. Cơ quan điều tra đã nhiều lần triệu tập xác minh nhưng hiện tại Phạm Anh G không có mặt tại địa phương, các tài liệu có tại hồ sơ vụ án chỉ duy nhất lời khai của bị hại thì chưa đủ căn cứ xác định G đồng phạm, cơ quan điều tra sẽ tiếp tục điều tra xử lý sau.

Khi đến nhà Phan Huy H thì Phạm Văn H1 có hành vi đánh ông Phan Quang M nhưng do thương tích nhẹ, ông M không có yêu cầu gì nên miễn xét.

[11] Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự (áp dụng riêng Điều 54; Điều 65 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Hoàng). Điểm c khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự. Khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án. Tuyên xử:

1. Tuyên bố bị cáo Phan Văn T, Phan Huy H phạm tội Cố ý gây thương tích.

2. Về hình phạt:

Xử phạt bị cáo Phan Văn T 24 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày thi hành án. Xử phạt bị cáo Phan Huy H 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 36 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Phan Huy H cho Ủy ban nhân dân xã G, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách án treo. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo khoản 1 Điều 69 Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

3. Về xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy 01 con dao canh dài 44cm; 01 cái liềm dài 32,5cm (Tình trạng vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 24/8/2019 giữa Cơ quan Công an huyện Hương Khê và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hương Khê).

4. Về án phí: Buộc mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về kháng cáo: Bị cáo, bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

177
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 25/2019/HS-ST ngày 30/09/2019 về tội cố ý gây thương tích  

Số hiệu:25/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hương Khê - Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về