Bản án 25/2019/HSST ngày 27/02/2019 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẢNG BOM, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 25/2019/HSST NGÀY 27/02/2019 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 27 tháng 02 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 23/2019/HSST ngày 01/02/2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 19/2019/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 02 năm 2019, đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1961; tại Bình Dương; Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú: Ấp 2, xã ST, huyện TB, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ học vấn: 1/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Phật; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Võ Văn D (Đã chết) và bà Nguyễn Thị Đ1 (Đã chết); có cH tên Nguyễn Văn H1, sinh năm 1962 và có 05 con (Con lớn sinh năm 1980, con nhỏ sinh năm 1990); tiền án, tiện sự: Không; bị cáo tại ngoại (Có mặt).

2. Họ và tên: Võ Thị T (Tên gọi khác: TT), sinh năm 1973; tại Đà Nẵng; Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú: Tổ 10, khu phố 1, thị trấn TB, huyện TB, tỉnh Đồng Nai; Nơi cư trú: Ấp 4, xã ST, huyện TB, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Nội trợ; trình độ học vấn: 3/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Võ Tri H2, sinh năm 1937 và bà Võ Thị Ng, sinh năm 1935; có cH tên Cao Phi H3, sinh năm 1968 và có 01 con sinh năm 1996; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 15/11/2018 đến ngày 24/11/2018 bị cáo được tại ngoại (Có mặt).

3. Họ và tên: Nguyễn Thị H C, sinh năm 1960; tại Đồng Nai; Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú: Ấp 5, xã ST, huyện TB, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Nội trợ; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Th, sinh năm 1934 và bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1937; có chồng tên Dương Thanh L, sinh năm 1960 và có 05 con (Con lớn sinh năm 1979, con nhỏ sinh năm 1990) tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 15/11/2018 đến ngày 24/11/2018 bị cáo được tại ngoại (Có mặt).

4. Họ và tên: Võ Thị Mỹ Dg, sinh năm 1980; tại Đồng Nai; Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú: Ấp 5, xã ST, huyện TB, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Nội trợ; trình độ học vấn: 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Cao đài; quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ Ngọc S, sinh năm 1955 và bà Trần Thị Mỹ L1, sinh năm 1956; có chồng tên Lê Tiến Ph, sinh năm 1973 và có 03 con (Con lớn sinh năm 2002, con nhỏ sinh năm 2008); tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 15/11/2018 đến ngày 24/11/2018 bị cáo được tại ngoại (Có mặt).

5. Họ và tên: Lê Thị Bạch T, sinh năm 1982; tại Đồng Nai; Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú: Khu phố 2, thị trấn TB, huyện TB, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ học vấn: 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Hùng X, sinh năm 1947 và bà Trần Thị Đ2, sinh năm 1955; có chồng tên Trần Thanh L2, sinh năm 1980 và có 02 con (Con lớn sinh năm 2011, con nhỏ sinh năm 2014); tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 15/11/2018 đến ngày 24/11/2018 bị cáo được tại ngoại (Có mặt).

6. Họ và tên: Lư Thị Kim H, sinh năm 1963; tại Bến Tre; Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú: Khu phố 4, thị trấn TB, huyện TB, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Nội trợ; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lư Minh Tr (Đã chết) và bà Nguyễn Thị S1 (Đã chết); có chồng tên Đặng Quốc Th1, sinh năm 1964 và có 02 con (Con lớn sinh năm 1987, con nhỏ sinh năm 1992); tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 15/11/2018 đến ngày 24/11/2018 bị cáo được tại ngoại (Có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Lư Thị Ng1, sinh năm 1982. Địa chỉ: Ấp 7, xã ML, huyện CT, tỉnh Bình Phước (Vắng mặt).

- Người làm chứng: Ông Hồ Văn Th2 (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội Dg vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Thị Đ là người buôn bán nên có quen biết với nhiều người, do thấy một số người có nhu cầu đánh bạc nên Đ nảy sinh ý định cho các người đánh bạc đến nhà của mình tại ấp 2, xã ST, huyện TB, tỉnh Đồng Nai đánh bạc để Đ thu tiền xâu. Vào khoảng tháng 10/2018, Đ chuẩn bị các dụng cụ đánh bạc gồm 02 bộ bài tứ sắc, 18 đồng xu bằng kim loại (gồm 13 đồng xu màu vàng và 05 đồng xu màu trắng), 01 tấm bìa catton bằng giấy kích thước 80cm x 110cm dùng làm chiếu bạc. Vào khoảng 12 giờ 30 phút ngày 15/11/2018, Võ Thị T, Nguyễn Thị H C, Lư Thị Kim H, Võ Thị Thị Dg và Lê Thị Bạch T đến nhà của Đ để đánh bạc, sau đó cả nhóm sử dụng 02 bộ bài “Tứ sắc” và 01 tấm bìa cátton làm chiếu bạc và ngồi đánh bạc tại phòng khách nhà Đ. Hình thức đánh bạc là các con bạc chia làm 04 tụ, sử dụng 01 bộ bài “tứ sắc” (các lá bài in hình Tướng, Sĩ, Tượng, Xe, Pháo, Mã, Tốt, gồm 7 nhóm quân, mỗi nhóm quân có 16 lá bài gồm 4 lá màu trắng, 4 lá màu xanh, 4 lá màu đỏ và 4 lá màu vàng, tổng cộng có 112 lá bài) chia đều cho mỗi tụ có 20 lá bài, người đánh trước sẽ được chia nhiều hơn những người còn lại 01 lá bài, số bài còn lại úp sấp để giữa chiếu bạc gọi là “bài nọc”, những người chơi sẽ lần lượt đánh bài và rút các lá “bài nọc” trong quá trình chơi, thứ tự xoay tua theo chiều kim đồng hồ hoặc ngược lại. Sau đó những người đánh bạc so sánh bài với nhau, người nào có bài lớn nhất thì thắng những người còn lại, không quy định người làm cái, mỗi ván bạc tiền thắng thua từ 20.000 đồng đến 40.000 đồng. Quy ước khi tham gia đánh bạc, các con bạc sẽ được nhận các đồng xu và số tiền là 30.000 đồng (loại tiền mệnh giá 1.000 đồng, 2.000 đồng và 5.000 đồng) để đánh bạc với nhau (số tiền 30.000 đồng tương ứng với số tiền là 1.200.000 đồng sau khi đánh xong mỗi “chến” bạc các con bạc sẽ chung cho nhau khi có 01 con bạc thua hết 30.000 đồng được nhận). Khi kết thúc mỗi “chến” bạc, tiền thắng thua các con bạc sử dụng loại tiền mệnh giá 10.000 đồng, 50.000 đồng, 100.000 đồng và 200.000 đồng để trả cho nhau và tiếp tục chơi “chến” bạc tiếp theo. Cách thức quy đổi sau khi thắng thua chung tiền như sau: tờ tiền mệnh giá 1.000 đồng đổi được 40.000 đồng, tờ tiền mệnh giá 2.000 đồng đổi được 80.000 đồng và tờ tiền mệnh giá 5.000 đồng đổi được 200.000 đồng; 01 đồng xu màu trắng đổi thành 2.000 đồng và 01 đồng xu màu vàng đổi thành 10.000 đồng. Đến khoảng 15 giờ cùng ngày, khi T, Dg, T, C và H đang đánh bạc thì bị lực lượng Công an huyện TB phối hợp cùng Công an xã ST bắt quả tang cùng vật chứng (Bút lục số: 100 – 101).

Ngày 24/11/2018 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện đã ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố các bị can Lê Thị Bạch T, Lư Thị Kim H, Nguyễn Thị H C, Võ Thị Mỹ Dg, Võ Thị T và Nguyễn Thị Đ để điều tra về tội “Đánh bạc”. Quá trình điều tra các bị can khai nhận:

Võ Thị T đem theo số tiền 5.780.000 đồng, sử dụng số tiền 1.780.000 đồng đánh bạc, tham gia đánh bạc “chến” thứ nhất thua 200.000 đồng, “chến” thứ hai thắng được 1.200.000 đồng, đến “chến” thứ ba thì bị bắt, bị thu giữ trên chiếu bạc 1.200.000 đồng, thu trong người 5.580.000 đồng (Bút lục số: 175 – 196).

Võ Thị Mỹ Dg không đem theo tiền đánh bạc, khi tham gia đánh bạc nếu có thua mỗi “chến” là 1.200.000 đồng thì Dg sẽ mượn tiền của Nguyễn Thị Đ để chung tiền thua bạc. Tham gia đánh bạc “chến” thứ nhất thắng được 600.000 đồng, “chến” thứ hai có Lê Thị Bạch T đến tham gia đánh bạc nên Dg sang tham gia chung tụ bài với Nguyễn Thị H C (mỗi người hùn vốn 50% tức là 600.000 đồng mỗi “chến” bạc), tụ bạc của Dg được T thay thế. “chến” thứ hai Dg và C thua 700.000 đồng nhưng số tiền trên do C bỏ ra chung tiền. Đến “chến” thứ ba khi đang đánh bạc thì bị bắt, bị thu giữ số tiền 600.000 đồng trên chiếu bạc ngoài ra không bị thu giữ gì khác (Bút lục số: 215 – 236).

Lê Thị Bạch T tham gia đánh bạc vào khoảng 14 giờ ngày 15/11/2018, sử dụng số tiền 230.000 đồng đánh bạc, “chến” thứ nhất thắng được 700.000 đồng, đến “chến” thứ hai khi đang đánh bạc thì bị bắt, bị thu giữ trên chiếu bạc số tiền 930.000 đồng, ngoài ra không bị thu giữ gì khác. Mỗi con bạc sau khi đánh xong một “chến” bạc thì phải nộp xâu 40.000 đồng, do trong lúc tham gia đánh bạc không có Nguyễn Thị Đ tại nhà nên chưa đưa tiền xâu (Bút lục số: 256 – 268).

Lư Thị Kim H khai nhận đem theo số tiền 14.800.000 đồng, sử dụng số tiền 3.600.000 đồng đánh bạc, “chến” thứ nhất thua 1.200.000 đồng, “chến” thứ hai thua tiếp 1.200.000 đồng (do nghĩ mình không may mắn nên H đã mượn số tiền 1.200.000 đồng của Nguyễn Thị Đ để chung bạc, sau khi tham gia đánh bạc xong sẽ trả lại cho Đ), đến “chến” thứ ba thì bị bắt, bị thu giữ trong người số tiền 13.600.000 đồng (Bút lục số: 284 – 306).

Nguyễn Thị H C sử dụng số tiền 2.480.000 đồng đánh bạc, “chến” thứ nhất thắng được 800.000 đồng, “chến” thứ hai tham gia cùng tụ bạc với Dg bị thua 700.000 đồng, C đưa 700.000 đồng cho Dg chung tiền thua bạc, số tiền 100.000 đồng để trong túi quần, đến “chến” thứ ba khi đang đánh bạc thì bị bắt, khi bị bắt số tiền 2.580.000 đồng C cất giấu sau đó tự nguyện giao nộp (Bút lục số 321 – 341).

Nguyễn Thị Đ khai nhận vào khoảng giữa tháng 10/2018 chuẩn bị dụng cụ đánh bạc để tại phòng khách trong nhà thuộc ấp 2, xã ST, huyện TB để những người đến tham gia đánh bạc với nhau. Sau khi đánh xong một “chến” bạc thì các con bạc mỗi người phải bỏ ra số tiền 40.000 đồng để nộp tiền xâu, các con bạc tự bỏ tiền xâu lên chiếu bạc cho Đ. Mục đích thu tiền xâu để Đ mua trái cây, cơm, nước uống cho các con bạc, số tiền còn lại Đ sử dụng vào mục đích cá nhân, thời gian các con bạc đến tham gia đánh bạc vào khoảng từ 12 giờ 30 phút đến 15 giờ 30 phút cùng ngày. Vào khoảng 13 giờ ngày 15/11/2018 khi Đ đi xuống nhà thì thấy có 05 người đang chơi đánh bạc với nhau, số tiền xâu lúc này có 40.000 đồng nên Đ lấy tiền và đi lên nhà nơi buôn bán để lấy nước cho các con bạc, ngoài ra Đ có cho Lư Thị Kim H mượn số tiền 1.200.000 đồng. Các con bạc đã đến nhà Đ tham gia đánh bạc được khoảng 4 lần, số tiền xâu Đ đã sử dụng mua nước, cơm cho các con bạc hết nên số tiền thu lợi bất chính không có (Bút lục số: 125 – 131).

- Vật chứng thu giữ gồm: 18 đồng xu hình tròn bằng kim loại (13 đồng xu màu vàng, 05 đồng xu màu trắng), 02 bộ bài tứ sắc, 01 miếng bìa catton màu trắng kích thước 80cm x 110cm; Tổng số tiền thu giữ là 35.300.000 đồng trong đó: số tiền 110.000 đồng (gồm các mệnh giá 1.000 đồng, 2.000 đồng, 5.000 đồng) và 1.800.000 đồng thu giữ trên chiếu bạc, số tiền 10.700.000 đồng thu giữ trên võng ngồi gần chiếu bạc; thu giữ số tiền 22.690.000 đồng thu giữ trong người các người đánh bạc (Bút lục số 100 – 103).

Tại Cáo trạng số: 36/CT-VKS-HS ngày 31/01/2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện TB, tỉnh Đồng Nai đã truy tố bị cáo Nguyễn Thị Đ, Võ Thị T, Nguyễn Thị H C, Võ Thị Mỹ Dg, Lê Thị Bạch T, Lư Thị Kim H về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện TB, tỉnh Đồng Nai giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt:

+ Bị cáo Nguyễn Thị Đ mức án từ 25.000.000đồng đến 30.000.000đồng.

+ Bị cáo Võ Thị T mức án từ 18 tháng đến 24 tháng cải tạo không giam giữ.

+ Bị cáo Nguyễn Thị H C mức án từ 20.000.000đồng đến 25.000.000đồng.

+ Bị cáoVõ Thị Mỹ Dg mức án từ 20.000.000đồng đến 25.000.000đồng.

+ Bị cáo Lê Thị Bạch T mức án từ 20.000.000đồng đến 25.000.000đồng.

+ Bị cáo Lư Thị Kim H mức án từ 20.000.000đồng đến 25.000.000đồng. Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Tịch thu tiêu hủy 18 đồng xu hình tròn bằng kim loại (13 đồng xu màu vàng, 05 đồng xu màu trắng), 02 bộ bài tứ sắc và 01 miếng bìa catton màu trắng kích thước 80cm x 110cm.

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 20.100.000đồng (Hai mươi triệu một trăm ngàn đồng) là tiền các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc và là tiền thu tại nơi đánh bạc nhưng không ai nhận.

Trả cho bị cáo T 4.000.000đồng (Bốn triệu đồng) và bị cáo H 11.200.000đồng (Mười một triệu hai trăm ngàn đồng) do không sử dụng vào việc đánh bạc.

Buộc các bị cáo phải nộp án phí hình sự theo quy định.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không nộp thêm tài liệu chứng cứ nào khác và đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Các bị cáo có ý kiến: các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Trảng Bom, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Lời khai nhận của các bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai nhận của các bị cáo tại Cơ quan điều tra; lời khai của các bị cáo phù hợp với nhau và phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án như Biên bản bắt người phạm tội quả tang (Bút lục số 100, 101); Biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu (Bút lục số 102). Như vậy, xét đã có đủ cơ sở để xác định: Vào khoảng 14 giờ đến 15 giờ ngày 15/11/2018, tại nhà bị cáo Nguyễn Thị Đ thuộc tổ 5, ấp 2, xã ST, huyện TB, tỉnh Đồng Nai, các bị cáo Nguyễn Thị Đ, Võ Thị T, Nguyễn Thị H C, Võ Thị Mỹ Dg, Lê Thị Bạch T, Lư Thị Kim H có hành vi đánh bạc trái phép với nhau bằng hình thức đánh bài “Tứ sắc” được thua bằng tiền với tổng số tiền các bị cáo dùng để đánh bạc với nhau là 9.400.000đồng (Chín triệu bốn trăm ngàn đồng). Do đó Hội đồng xét xử có đủ yếu tố kết luận các bị cáo Nguyễn Thị Đ, Võ Thị T, Nguyễn Thị H C, Võ Thị Mỹ Dg, Lê Thị Bạch T, Lư Thị Kim H phạm tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự.

[3]. Các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với vai trò đồng phạm, nhưng chỉ dừng lại ở tính chất giản đơn. Trong đó các bị cáo Lê Thị Bạch T, Lư Thị Kim H, Nguyễn Thị H C, Võ Thị Mỹ Dg và Võ Thị T đều là người trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo Nguyễn Thị Đ là người chuẩn bị các dụng cụ đánh bạc và thu tiền xâu đánh bạc nên đã phạm tội với vai trò đồng phạm giúp sức về tội đánh bạc. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến an toàn công cộng, trật tự công cộng nên cần phải xử phạt bị cáo một mức án tương xứng hành vi của các bị cáo. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử khi lượng hình cũng cần xem xét đến việc các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên cần áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với các bị cáo. Đối với bị cáo T đã bị từng bị Tòa án xét xử nhưng đã được xóa án tích. Ngoài ra, các bị cáo Đ, C, Dg, T, H phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên cần áp dụng điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với các bị cáo. Do đó, xử phạt các bị cáo Đ, T, H, C, Dg hình phạt tiền và bị cáo T hình phạt cải tạo không giam giữ là đủ tác dụng giáo dục, răn đe phòng ngừa chung. Bị cáo T không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên miễn khấu trừ thu nhập.

[4]. Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện TB phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[5]. Về vật chứng vụ án: Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:

Tịch thu tiêu hủy tiêu hủy 18 đồng xu hình tròn bằng kim loại (13 đồng xu màu vàng, 05 đồng xu màu trắng), 02 bộ bài tứ sắc và 01 miếng bìa catton màu trắng kích thước 80cm x 110cm do không còn giá trị sử dụng.

Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 20.100.000đồng (Hai mươi triệu một trăm ngàn đồng), trong đó 9.400.000đồng (Chín triệu bốn trăm ngàn đồng) là tiền các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc, 110.000đồng (Một trăm mười ngàn đồng) là tiền mệnh giá nhỏ các bị cáo sử dụng làm công cụ, phương tiện đánh bạc và 10.700.000đồng (Mười triệu bảy trăm ngàn đồng) là tiền thu tại nơi đánh bạc nhưng không ai nhận.

Đối với số tiền 4.000.000đồng (Bốn triệu đồng) của bị cáo Võ Thị T và 11.200.000đồng (Mười một triệu hai trăm ngàn đồng) của bị cáo Lư Thị Kim H không sử dụng để đánh bạc nên cần trả lại cho các bị cáo T, H.

[6]. Về án phí: Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự:

- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Đ, Nguyễn Thị H C, Võ Thị Mỹ Dg, Lê Thị Bạch T, Lư Thị Kim H phạm tội: “Đánh bạc”.

- Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị Đ 25.000.000đồng (Hai mươi lăm triệu đồng).

- Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị H C 20.000.000đồng (Hai mươi triệu đồng).

- Xử phạt: Bị cáo Võ Thị Mỹ Dg 20.000.000đồng (Hai mươi triệu đồng).

- Xử phạt: Bị cáo Lê Thị Bạch T 20.000.000đồng (Hai mươi triệu đồng).

- Xử phạt: Bị cáo Lư Thị Kim H 20.000.000đồng (Hai mươi triệu đồng).

2. Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; Điều 36; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự:

- Tuyên bố bị cáo Võ Thị T phạm tội: “Đánh bạc”.

- Xử phạt: Bị cáo Võ Thị T 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng cải tạo không giam giữ; thời gian cải tạo không giam giữ được tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát giáo dục người bị kết án nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án; nhưng được trừ thời gian bị cáo đã bị tạm giữ trước đó (từ ngày 15/11/2018 đến ngày 2111/2018); cứ một ngày tạm giữ bằng 03 ngày cải tạo không giam giữ.

- Giao bị cáo Võ Thị T cho Ủy ban nhân dân thị trấn TB, huyện TB, tỉnh Đồng Nai giám sát, giáo dục trong thời gian cải tạo không giam giữ.

- Miễn khấu trừ thu nhập cho bị cáo Võ Thị T.

3. Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy tiêu hủy 18 đồng xu hình tròn bằng kim loại (13 đồng xu màu vàng, 05 đồng xu màu trắng), 02 bộ bài tứ sắc và 01 miếng bìa catton màu trắng kích thước 80cm x 110cm.

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 20.100.000đồng (Hai mươi triệu một trăm ngàn đồng).

Hoàn trả cho bị cáo T 4.000.000đồng (Bốn triệu đồng) và bị cáo H 11.200.000đồng (Mười một triệu hai trăm ngàn đồng).

(Theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 01/02/2019 và Biên lai thu tiền số 01581 ngày 01/2/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện TB).

3. Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14: Buộc mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Riêng người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

317
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 25/2019/HSST ngày 27/02/2019 về tội đánh bạc

Số hiệu:25/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trảng Bom - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về