Bản án 25/2019/HSST ngày 06/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VŨ THƯ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 25/2019/HSST NGÀY 06/06/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 06 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã T, huyện V, tỉnh T, xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 27/2019/TLST-HS, ngày 16 tháng 5 năm 2019, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 25/2019/QĐXXST-HS ngày 23/5/2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Ngọc B; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh ngày 20/5/1957 tại thành phố T, tỉnh T; Nơi cư trú: thôn Đ, xã P, thành phố T, tỉnh T; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 7/10; Họ tên cha: Nguyễn Ngọc H, sinh năm 1915 (Đã chết); Họ tên mẹ: Trần Thị X, sinh năm 1915 (Đã chết); Họ tên vợ: Nguyễn Thị X1, sinh năm 1963, hiện làm ruộng và trú tại thôn Đ, xã P, thành phố T, tỉnh T; Bị cáo có 03 con, con lớn sinh năm 1984, nhỏ sinh năm 1992; Nhân thân: học hết lớp 7/10, sau đó lao động tự do. Từ tháng 7/1977 đến tháng 8/1982 tham gia quân đội nhân nhân Việt Nam, tại Vùng 5 Hải Quân, trong đó thời gian từ năm 1979 tham gia bộ đội tình nguyện chiến đấu tại chiến trường Campuchia. Năm 1999 được Chủ tịch nước Cộng hòa XHCN Việt Nam tặng thưởng Huân chương chiến công hạng Ba; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 07/3/2019 đến ngày 13/3/2019 chuyển tạm giam, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện V, tỉnh T. (Có mặt)

* Người làm chứng: - Ông Trần Văn H, sinh năm 1950, cư trú tại thôn L, xã T, huyện V, tỉnh T (vắng mặt).

- Anh Tô Văn Q, sinh năm 1974, cư trú tại số nhà 197, ngõ 17, tổ A, thị trấn V, huyện V, tỉnh T (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do mắc nghiện ma túy nên khoảng 08 giờ ngày 07/3/2019, Nguyễn Ngọc B, điều khiển xe mô tô Biển số đăng kí 17B9-207.18 từ nhà tại thôn Đ, xã P, thành phố T, tỉnh T, đến khu vực chợ Q, thuộc địa phận phường Q, thành phố T, tỉnh T, mục đích tìm mua ma túy loại Hêrôin về để sử dụng cho bản thân. Khi đến khu vực chợ Q, B đi vào một ngõ nhỏ gần chợ gặp và mua của một người phụ nữ khoảng 30 tuổi, B không biết tên, địa chỉ 01 (Một) gói ma túy loại Hêrôin với giá 200.000 đồng. Biết đã mua được Hêrôin, B không mở ra kiểm tra mà cất giấu vào túi quần dài, phía trước, bên trái đang mặc rồi điều khiển xe mô tô đi về xã T, huyện V để thăm một người bạn. Đến khoảng 08 giờ 50 phút cùng ngày, khi Nguyễn Ngọc B đi đến địa phận thôn L, xã T, huyện V, tỉnh T thì bị lực lượng Công an huyện V yêu cầu kiểm tra. Trước sự chứng kiến của chính quyền địa phương và những người chứng kiến là ông Trần Văn H, sinh năm 1950, cư trú tại thôn L, xã T, huyện V, tỉnh T và anh Tô Văn Q, sinh năm 1974, cư trú tại số nhà 197, ngõ 17, tổ A, thị trấn V, huyện V, tỉnh T. Lực lượng Công an tiến hành kiểm tra phát hiện, thu giữ: tại túi quần dài, phía trước, bên trái B đang mặc 01 gói ma túy loại Hêrôin được gói bằng giấy tráng kim màu trắng, bên trong có khối lượng 0,1441 gam (Không phẩy một nghìn bốn trăm bốn mươi mốt gam). Ngoài ra, lực lượng Công an còn quản lý 01 xe mô tô Biển số đăng kí 17B9-207.18 nhãn HonDa, sơn màu xanh đã qua sử dụng .

- Bản kết luận giám định số 62/KLGĐ-PC09 ngày 07/3/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T, kết luận: Mẫu gửi giám định thu của Nguyễn Ngọc B là ma túy, loại Hêrôin, có khối lượng 0,1441 gam (Không phẩy một nghìn bốn trăm bốn mươi mốt gam).

Hêrôin STT: 09, Danh mục I, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ (bút lục số 13).

Cáo trạng số 28/CT-VKSVT, ngày 14/5/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện V, tỉnh T truy tố đối với bị cáo Nguyễn Ngọc B về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng đã nêu trên.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện V vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng: Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s, x, v khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự: Xử phạt Nguyễn Ngọc B từ 01năm đến 01 năm 03 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 07/3/2019.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền vì bị cáo mua ma túy để sử dụng cho bản thân, không có mục đích thu lợi bất chính.

- Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

Tịch thu tiêu hủy số ma túy đã thu giữ của Nguyễn Ngọc B đựng trong 01 phong bì niêm phong số 62/KLGĐ-PC09 ngày 07/3/2019 hoàn trả mẫu vật gửi giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T (có đặc điểm như biên bản quản lý).

- Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

- Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo, lời khai của những người tham gia tố tụng khác có trong hồ sơ vụ án;

[1] Về quyết định tố tụng, hành vi tố tụng: Quyết định tố tụng, hành vi tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện V. Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện V, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Hành vi phạm tội của bị cáo: Xét thấy, lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Ngọc B tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố có trong hồ sơ vụ án; phù hợp với lời khai của người làm chứng là ông Trần Văn H, sinh năm 1950, cư trú tại thôn L, xã T, huyện V, tỉnh T và anh Tô Văn Q, sinh năm 1974, cư trú tại số nhà 197, ngõ 17, tổ A, thị trấn V, huyện V, tỉnh T (Bút lục từ số 77 đến số 84); và còn được chứng minh bằng biên bản bắt người phạm tội quả tang do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V, tỉnh T lập hồi 09 giờ 15 ngày 07/3/2019 tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã T, huyện V, tỉnh T (Bút lục số 06, 07); Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V, tỉnh T lập hồi 10 giờ 35 phút ngày 07/3/2019 tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã T, huyện V, tỉnh T (Bút lục số 08); Kết luận giám định số 62/KLGĐ-PC09 ngày 07/3/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T, cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Từ những chứng cứ nêu trên, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ để kết luận: Khoảng 08 giờ 50 phút ngày 07/3/2019, tại khu vực đường liên xã thuộc địa phận thôn L, xã T, huyện V, tỉnh T, lực lượng Công an huyện V, tỉnh T, phát hiện, bắt quả tang Nguyễn Ngọc B, sinh ngày 20/5/1957, cư trú tại thôn Đ, xã P, thành phố T, tỉnh T, đang tàng trữ trái phép 01 (Một) gói Hêrôin có khối lượng 0,1441 gam (Không phẩy một nghìn bốn trăm bốn mươi mốt gam) tại túi quần dài phía trước, bên trái B đang mặc, mục đích để sử dụng cho bản thân.

[3] Về tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội và vai trò của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Ngọc B là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý các chất gây nghiện của Nhà nước, làm gia tăng tệ nạn về ma túy, gây mất trật tự trị an xã hội. Vì vậy phải cần phải xử lý nghiêm khắc thì mới có tác dụng giáo dục riêng cho bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

[4] Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân bị cáo, Hội đồng xét xử thấy: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo đều thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn hối cải, bị cáo là thương binh loại A, hạng 4/4 - thuộc trường hợp người có công với cách mạng; bị cáo được tặng thưởng Huân chương chiến công hạng Ba của Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam vì đã có thành tích xuất sắc hoàn thành nhiệm vụ Quốc tế vẻ vang tại Campuchia nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ là “thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải”, “người phạm tội là người có công với cách mạng” và “người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác” quy định tại điểm s, x, v khoản 1 và Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo đã tham gia quân đội 05 năm 02 tháng nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Vì vậy Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Nguyễn Ngọc B đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự theo như quan điểm của Kiểm sát viên đại diện cho VKS tại phiên tòa là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Từ những nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử thấy cần buộc bị cáo Nguyễn Ngọc B phải cách ly xã hội một thời gian mới đủ để giáo dục và cải tạo thành người có ích cho xã hội. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền vì bị cáo mua ma túy để sử dụng cho bản thân, không có mục đích thu lợi bất chính.

[6] Về vật chứng: Cần tịch thu tiêu hủy số ma túy đã thu giữ của Nguyễn Ngọc B đựng trong 01 phong bì niêm phong số 62/KLGĐ-PC09 ngày 07/3/2019 hoàn trả mẫu vật gửi giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T.

[7] Về nguồn gốc ma túy: Nguyễn Ngọc B khai mua của một người phụ nữ khoảng 30 tuổi tại khu vực ngõ nhỏ chợ Q, thuộc phường Q, thành phố T, tỉnh T. Bgặp và mua ma túy của người phụ nữ này là lần đầu tiên và k hông biết tên, địa chỉ ở đâu, cũng không liên lạc bằng điện thoại. Quá trình điều tra chưa xác định được người phụ nữ đã bán Hêrôin cho B, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V tiếp tục điều tra xác minh khi có đủ căn cứ xử lý sau.

[8] Đối với chiếc xe mô tô Biển số đăng ký 17B9-207.18, tài liệu điều tra xác định thuộc sở hữu hợp pháp của Nguyễn Ngọc B. Chiếc xe mô tô trên không liên quan đến hành vi phạm tội vì vậy không cần thiết phải tiếp tục quản lý nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V tỉnh T, đã trả lại cho bà Nguyễn Thị X1, sinh năm 1963, trú tại thôn Đ, xã P, thành phố T, tỉnh T, là vợ của B quản lý, sử dụng là có căn cứ.

[9] Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1.Tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Hình phạt: Áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 249, Điều 50, Điểm s, x, v khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015: Xử phạt Nguyễn Ngọc B 01 (một ) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 07/3/2019.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền vì bị cáo mua ma túy để sử dụng cho bản thân, không có mục đích thu lợi bất chính.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

Tịch thu tiêu hủy số ma túy loại Hêrôin, có khối lượng 0,1292 gam (Không phẩy một nghìn hai trăn chín mươi hai gam) đựng trong 01 phong bì niêm phong số 62/KLGĐ-PC09 ngày 07/3/2019 hoàn trả mẫu vật gửi giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T ( có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện V ngày 16/5/2019).

4. Về án phí: Áp dụng Điều 135, 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Bị cáo Nguyễn Ngọc B phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

5. Về quyền kháng cáo đối với Bản án: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

- Bị cáo Nguyễn Ngọc B có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

167
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 25/2019/HSST ngày 06/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:25/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vũ Thư - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về