Bản án 25/2019/HS-PT ngày 26/08/2019 về tội chứa mại dâm

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC KẠN

BẢN ÁN 25/2019/HS-PT NGÀY 26/08/2019 VỀ TỘI CHỨA MẠI DÂM

Ngày 26 ngày 8 năm 2019 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Kạn tiến hành xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 29/2019/TLPT-HS ngày 18 tháng 7 năm 2019 đối với bị cáo Hoàng Thị H do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 15/2019/HS-ST, ngày 13 tháng 6 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện NS, tỉnh BK.

* Bị cáo kháng cáo:

Hoàng Thị H (Tên gọi khác: Hằng), sinh ngày 10/10/1977; tại huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn. Nơi ĐKHKTT: Thôn LC, xã LB, huyện BT, tỉnh BK; Chỗ ở: Thôn PM, xã BV, huyện NS, tỉnh BK; nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá 4/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Văn N và bà Nông Thị Đ (Đều đã chết); bị cáo không có chồng, có 01 con sinh năm 1994. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 04/01/2019 đến ngày 13/01/2019. Hiện bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú, đến nay có mặt tại phiên tòa.

(Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người làm chứng không liên quan đến kháng cáo Tòa không triệu tập)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 21 giờ ngày 03/01/2019, tổ công tác Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự Công an tỉnh Bắc Kạn phối hợp cùng Công an huyện NS kiểm tra tại quán cà phê TH thuộc thôn PM, xã BV, huyện NS, tỉnh BK của Hoàng Thị H, sinh năm 1977, nơi ĐKHKTT: Thôn LC, xã LB, huyện BT, tỉnh BK; Chỗ ở: Thôn PM, xã BV, huyện NS, tỉnh BK (H thuê nhà của ông Trần Xuân C tại địa chỉ trên để làm quán), Tổ công tác phát hiện và lập biên bản bên trong quán tại gian phòng bên trái của quán, tính từ trong nhà ra cửa chính có 02 đôi nam nữ đang quan hệ tình dục ở hai giường khác nhau, cụ thể:

Giường thứ nhất: Hoàng Thị P, sinh năm 1977, hộ khẩu thường trú thôn DV, xã ĐT, huyện TĐ, tỉnh ĐN và Nguyễn Văn H, sinh năm 1973, hộ khẩu thường trú tại thôn ND, xã DQ, thành phố BK, tỉnh BK. Thu tại chỗ 01 bao cao su đã qua sử dụng và 01 vỏ bao cao su bị xé có nhãn hiệu “VIP” Giường thứ hai: Vũ Thị T, sinh năm 1978, hộ khẩu thường trú xóm 3, thôn AL, xã TL, huyện TT, tỉnh TB và Triệu La V, sinh năm 1982, hộ khẩu thường trú thôn N, phường HT, thành phố BK, tỉnh BK. Thu giữ 01 bao cao su đã qua sử dụng có nhãn hiệu “VIP PLUS” và 02 bao cao su chưa qua sử dụng có nhãn hiệu “VIP PLUS”.

Tiến hành khám xét khẩn cấp các địa điểm trong quán cà phê Thanh Hằng thu giữ, tạm giữ các đồ vật, tài sản gồm:

- Thu giữ của Hoàng Thị H 520.000 đồng, trong đó có 400.000 đồng tiền mua dâm của hai người đàn ông, niêm phong trong phong bì ký hiệu “H”.

- Tại ngăn kéo tủ gần đầu giường trong phòng ngủ của Hoàng Thị H có 03 bao cao su chưa qua sử dụng.

- Tại đầu giường trong phòng ngủ của Hoàng Thị H có 01 ví da màu đỏ bên trong có 1.400.000 đồng.

- Tại gầm giường gần bếp của Hoàng Thị H có 08 bao cao su đã qua sử dụng

- 04 chiếc điện thoại di động của Hoàng Thị H.

Quá trình điều tra xác định: Khoảng tháng 6/2017, Hoàng Thị H thuê nhà của ông Trần Xuân C, sinh năm 1964, thuộc thôn PM, xã BV, huyện NS, tỉnh BK để mở quán cà phê “TH”. Ngày 01/01/2019 H nhận Vũ Thị T, sinh năm 1978, hộ khẩu thường trú tại AL, xã TL, huyện TT, tỉnh TB và đến ngày 03/01/2019 nhận tiếp Vũ Thị T, sinh năm 1978, hộ khẩu thường trú xóm 3, thôn AL, xã TL, huyện TT, tỉnh TB vào làm nhân viên tại quán với mục đích để bán dâm cho khách kiếm lời. Hoàng Thị H thỏa thuận để cho P và T mỗi lần bán dâm sẽ lấy tiền của khách mua dâm là 200.000 đồng, trong đó H hưởng lợi 80.000 đồng, còn lại T và P được hưởng.

Khoảng 21 giờ ngày 03/01/2019, Nguyễn Văn H, Triệu La V đến quán cà phê TH của Hoàng Thị H để uống nước, quá trình uống nước thấy Hoàng Thị P và Vũ Thị T đang ngồi sưởi lửa tại quán nên đặt vấn đề với chủ quán Hoàng Thị H để mua dâm với nhân viên của quán và được H đồng ý và thỏa thuận mỗi lần mua dâm giá 200.000 đồng/ người. Sau đó H đã đưa cho H số tiền 430.000 đồng, trong đó có 30.000 đồng là tiền nước uống và 400.000 đồng là tiền để H và V mua dâm với T và P. Sau khi H nhận tiền thì H và V được T và P đưa vào phòng để thực hiện hành vi mua bán dâm, khi các đối tượng đang thực hiện hành vi mua, bán dâm thì bị cơ quan Công an phát hiện và lập biên bản.

Với nội dung trên, Bản án hình sự sơ thẩm số: 15/2019/HS-ST, ngày 13/6/2019 của Tòa án nhân dân huyện NS, tỉnh BK đã tuyên bố bị cáo Hoàng Thị H phạm tội "Chứa mại dâm".

Căn cứ khoản 1, khoản 5 Điều 327; Điều 38; Điều 47; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015;

Xử phạt bị cáo Hoàng Thị H 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án. Được trừ thời gian bị cáo bị tạm giữ từ ngày 04/01/2019 đến ngày 13/01/2019.

- Hình phạt bổ sung: Phạt tiền bị cáo 10.000.000 đồng để nộp ngân sách Nhà nước.

Ngoài ra Bản án sơ thẩm còn tuyên về vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo kháng cáo xin được hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo và thừa nhận Cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Chứa mại dâm” là có căn cứ, đúng người, đúng tội, bị cáo xin HĐXX Cấp phúc thẩm xem xét cho bị cáo được hưởng án treo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Kạn phát biểu quan điểm: Xét thấy đơn kháng cáo của bị cáo phù hợp với quy định của pháp luật về chủ thể và thời hạn kháng cáo nên có căn cứ xem xét theo quy định. Trong quá trình điều tra vụ án và quá trình thẩm tra tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ "Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải" quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51/BLHS. Trong giai đoạn xét xử phúc thẩm bị cáo đã nộp tiếp khoản tiền phạt bổ sung và án phí hình sự sơ thẩm với số tiền: 6.200.000 đồng là thể hiện ý thức chấp hành pháp luật của bị cáo, do vậy bị cáo được hưởng thêm một tình tiết giảm nhẹ mới quy định tại khoản 2 Điều 51/BLHS. Xét thấy bị cáo được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 51/BLHS, do vậy đề nghị HĐXX chấp nhận kháng cáo của bị cáo, cho bị cáo được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Đơn kháng cáo của người bị cáo phù hợp với quy định tại Điều 331 và 333 của Bộ luật Tố tụng Hình sự về chủ thể và thời hạn kháng cáo nên có căn cứ để HĐXX xem xét.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 21 giờ ngày 03/01/2019 tại quán cà phê TH thuộc thôn PM, xã BV, huyện NS, tỉnh BK, Hoàng Thị H đã có hành vi nhận số tiền 400.000 (Bốn trăm nghìn đồng) của Nguyễn Văn H, sau đó cho hai nhân viên nữ của quán cà phê do mình quản lý bán dâm cho H và Triệu La V tại hai giường trong phòng của quán với mục đích kiếm lời. Khi 02 đôi nam nữ đang quan hệ tình dục thì bị tổ công tác Công an huyện NS phát hiện bắt quả tang và lập biên bản.

Với hành vi nêu trên của bị cáo, Cấp sơ thẩm đã xét xử Hoàng Thị H về tội "Chứa mại dâm" với mức hình phạt 18 (Mười tám) tháng tù là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[3] Xét nội dung kháng cáo của bị cáo xin được hưởng án treo, HĐXX xét thấy:

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ “Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” quy định tại điểm s, khoản 1 Điều 51/ BLHS. Trong giai đoạn xét xử phúc thẩm bị cáo đã nộp thêm khoản tiền phạt bổ sung và án phí hình sự sơ thẩm với số tiền 6.200.000 đồng là thể hiện “Ý thức chấp hành pháp luật của bị cáo”, đây là tình tiết giảm nhẹ mới quy định tại khoản 2 Điều 51/BLHS cần được áp dụng cho bị cáo.

Sau khi xem xét tính chất mức độ hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy rằng bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng, được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 51/BLHS; bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; có nơi cư trú rõ ràng nên xét thấy không cần thiết buộc bị cáo phải đi chấp hành hình phạt tù mà cho bị cáo được cải tạo tại địa phương thì vẫn đủ sức răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung, do vậy cần chấp nhận kháng cáo của bị cáo.

[4] Xét quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Kạn về việc giải quyết vụ án là phù hợp với quy định của pháp luật nên có căn cứ được chấp nhận.

[5] Án phí: Do kháng cáo của bị cáo được chấp nhận nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định.

[6] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm e, khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Hoàng Thị H, sửa bản án hình sự sơ thẩm số: 15/2019/HS-ST ngày 13/6/2019 của Tòa án nhân dân huyện NS, tỉnh BK.

Căn cứ khoản 1 Điều 327; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015;

Xử phạt bị cáo Hoàng Thị H 18 (Mười tám) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 36 (Ba mươi sáu) tháng về tội “Chứa mại dâm”. Thời hạn tính từ ngày tuyên án phúc thẩm.

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã LB, huyện BT, tỉnh BK giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật này.

2. Vật chứng: Tạm giữ số tiền 6.200.000đ (Sáu triệu hai trăm nghìn đồng) bị cáo đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ngân Sơn, tỉnh Bắc Kạn theo biên lai thu tiền số 07936, ngày 20/6/2019 để đảm bảo thi hành án cho bị cáo.

3. Về án phí: Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

4. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

320
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 25/2019/HS-PT ngày 26/08/2019 về tội chứa mại dâm

Số hiệu:25/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bắc Kạn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về