Bản án 25/2019/HS-PT ngày 04/03/2019 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 25/2019/HS-PT NGÀY 04/03/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 04 tháng 3 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Quảng Bình mở phiên toà xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 03/2019/TLPT-HS ngày 04 tháng 01 năm 2019 đối với bị cáo Ngô Văn T do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 71/2018/HS-ST ngày 28 tháng 11 năm 2018 của Toà án nhân dân thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình.

Bị cáo có kháng cáo: Ngô Văn T, sinh ngày 15 tháng 5 năm 1996 tại Thanh Hóa; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: thôn Đ, xã N, huyện H, tỉnh Ninh Bình; Nơi đăng ký tạm trú: tổ dân phố A, phường N, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình; nghề nghiệp: Thợ đá mỹ nghệ; trình độ học vấn: lớp 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Ngô Xuân Q và bà Nguyễn Thị Th; vợ Nguyễn Thị Th; chưa có con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo không bị bắt tạm giam giữ ngày nào. Bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa.

Vụ án có người bị hại và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan nhưng không có kháng cáo, án sơ thẩm không bị kháng nghị nên Toà án không triệu tập tham gia phiên toà phúc thẩm

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được xác định như sau:

Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 21/7/2018, Ngô Văn T dùng tuốc nơ vít tháo khung cửa sổ phía sau phòng trọ của chị Hoàng Thị Ph ở cùng dãy trọ với T thuộc tổ dân phố A, phường N, thành phố Đ để trộm cắp tài sản. Sau khi đột nhập vào trong, T lục tủ đựng áo quần của chị Ph phát hiện 01 ví da màu nâu bên trong có 01 thẻ ATM của Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam (BIDV) trong đó thẻ màu vàng có kèm mảnh giấy ghi số mật khẩu thẻ. T lấy trộm thẻ trên đi đến cây rút tiền ATM của ngân hàng BIDV đặt ở cổng Bệnh viện V thực hiện 06 lần rút tiền lấy 23.000.000 đồng. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày T đến cây rút tiền ATM tại đường Q thuộc phường H rút thêm 800.000 đồng rồi vứt thẻ ATM. T dùng số tiền trên mua 01 điện thoại IPHONE 6 tại cửa hàng FPT thuộc phường B với giá 12.990.000 đồng. Hôm sau T trả lại điện thoại di động trên rồi đến cửa hàng Thế giới di động ở phường Đ mua 01 điện thoại IPHONE 6 với giá 7.490.000 đồng. Số tiền còn lại T tiêu xài cá nhân hết.

Quá trình điều tra, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đồng Hới đã truy tìm nhưng không thu hồi được thẻ ATM mà T đã vứt bỏ; thu giữ từ T 01 tuốc nơ vít, 01 điện thoại di động IPHONE 6 cùng tai nghe và sạc. T đã bồi thường số tiền 23.800.000 đồng cho chị Hoàng Thị Ph, chị Ph đã nhận lại tài sản và không yêu cầu gì thêm.

Liên quan trong vụ án có Bùi Ngọc Th, Nguyễn Thị Th, Lâm Thái T và Võ Văn C là những người có liên quan đến tài sản do Tuấn phạm tội mà có nhưng không biết nên không phạm tội.

Bản Cáo trạng 65/CT-VKSĐH-KT ngày 09/11/2018, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đồng Hới đã truy tố Ngô Văn T về tội "Trộm cắp tài sản" theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Bản án hình sự sơ thẩm số 71/2018/HS-ST ngày 28 tháng 11 năm 2018 của Toà án nhân dân thành phố Đồng Hới đã quyết định tuyên bố bị cáo Ngô Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”

Áp dụng khoản 1 Điều 173; các điểm b, i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, xử phạt: Ngô Văn T 09 (chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.

Về trách nhiệm dân sự: không xem xét.

Về xử lý vật chứng: áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; căn cứ điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu hủy 01 tuốc lơ vít thu giữ từ Ngô Văn T. Trả lại cho Ngô Văn T 01 điện thoại di động IPHONE 6 màu vàng, số Imeil 353027098998350.

Bị cáo Ngô Văn T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm

Tuyên quyền kháng cáo bản án sơ thẩm đối với bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan theo quy định của pháp luật.

Trong hạn luật định, ngày 25/5/2018 bị cáo Ngô Văn T có đơn kháng cáo xin được hưởng cải tạo không giam giữ.

Kiểm sát viên thực hành quyền công tố xét xử phúc thẩm vụ án đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự: không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Ngô Văn T, giữ nguyên án sơ thẩm về phần hình phạt 09 tháng tù đối với bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Theo lời khai nhận tội của bị cáo Ngô Văn T tại phiên toà hôm nay phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có tại hồ sơ vụ án cũng như lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên toà sơ thẩm, phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, giá trị tài sản trộm cắp 23.800.000 đồng, Hội đồng xét xử thấy có căn cứ khẳng định Bản án hình sự sơ thẩm số 71/2018/HS-ST ngày 28 tháng 11 năm 2018 của Toà án nhân dân thành phố Đồng Hới quyết định tuyên bố bị cáo Ngô Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[2]. Xét kháng cáo xin được hưởng hình phạt cải tạo không giam giữ của bị cáo Ngô Văn T, Hội đồng xét xử thấy: Bị cáo là người trưởng thành, có nghề nghiệp ổn định, nhưng do chây lười lao động, muốn có tiền mà không phải lao động, bị cáo đã bất chấp, xem thường pháp luật nên đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của người khác. Hành vi của bị cáo đã trực tiếp làm xâm hại đến tài sản thuộc sở hữu của người khác, ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự ở địa phương, do đó cần phải xử phạt nghiêm. Tuy nhiên, sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, đã bồi thường đầy đủ cho người bị hại, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, án sơ thẩm đã cân nhắc áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo tại các điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 và xử phạt bị cáo 09 (chín) tháng tù là đã xem xét giảm nhẹ cho bị cáo.

Tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo T không cung cấp được tài liệu, chứng cứ hay tình tiết giảm nhẹ nào mới so với cấp sơ thẩm. Do đó không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của bị cáo, cần giữ nguyên bản án sơ thẩm như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình là phù hợp.

[3]. Về án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo Tuấn phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định.

[4]. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356, khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Ngô Văn T. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 71/2018/HS-ST ngày 28 tháng 11 năm 2018 của Toà án nhân dân thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình.

Áp dụng khoản 1 Điều 173, các điểm b, i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Ngô Văn T 09 (chín) tháng tù về tội “ Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

2. Về án phí: Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án và danh mục án phí. Bị cáo Ngô Văn T phải chịu nộp 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

306
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 25/2019/HS-PT ngày 04/03/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:25/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quảng Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về