Bản án 25/2019/HNGĐ-ST ngày 21/08/2019 về ly hôn, nuôi con chung

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIÊN DU, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 25/2019/HNGĐ-ST NGÀY 21/08/2019 VỀ LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 21 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số:177/2019/TLST-HNGĐ, ngày 04 tháng 6 năm 2019 về việc tranh chấp hôn nhân và gia đình theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 25/2019/QĐXXST-HNGĐ, ngày 26 tháng 7 năm 2019 giữa:

Nguyên đơn: Chị Vũ Thị Huyền T, sinh năm 1995 (Có mặt).

Bị đơn: Anh Đặng Ngọc H, sinh năm 1991- Xin xét xử vắng mặt..

Cùng đăng ký HKTT tại: Thôn X, xã L, huyện T, tỉnh Bắc Ninh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và các tài liệu khác, nguyên đơn là chị Vũ Thị Huyền T trình bày:

Chị kết hôn với anh Đặng Ngọc H vào ngày 11/12/2012. Trước khi cưới anh chị có được tìm hiểu tự nguyện, không bị ép buộc và có làm thủ tục đăng ký kết hôn tại UBND xã L, huyện T, tỉnh Bắc Ninh.

Quá trình chung sống vợ chồng sống hòa thuận đến năm 2017 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do cuộc sống vợ chồng bất đồng quan điểm sống , anh H ăn chơi, đua đòi không chịu làm ăn, không quan tâm, lo lắng cho gia đình. Chị có khuyên giải anh H tu chí làm ăn, lo kinh tế cho gia đình nhưng anh H nghe. Vợ chồng đã sống ly thân và cắt đứt mọi quan hệ tình cảm từ năm 2017 cho đến nay. Chị thấy không thể tiếp tục chung sống với anh H được vì không còn tình cảm và đề nghị xin được ly hôn với anh H.

Về con chung: Vợ chồng có một con chung là Đặng Ánh D, sinh ngày 04/01/2014. Hiện con chung đang sống với chị. Ly hôn chị có nguyện vọng được nuôi con. Vấn đề cấp dưỡng nuôi con, chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Chị hiện đang làm việc tại nhà bố mẹ đẻ thu nhập một tháng khoảng từ 06 đến 07 triệu đồng do vậy có đủ điều kiện nuôi con.

Tài sản chung, công nợ: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.Vợ chồng không nợ ai, không ai nợ vợ chồng.

Anh Đặng Ngọc H đã nhận được các thông báo về phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải của Tòa án nhưng anh không đến Tòa án làm việc, anh H đã nhận được quyết định đưa vụ án ra xét xử nhưng anh có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ vào biên bản ghi lời khai và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, bị đơn là anh Đặng Ngọc H trình bày:

Thng nhất với lời trình bày của chị T về thời gian, điều kiện kết hôn và con chung của vợ chồng. Anh cho rằng vợ chồng phát sinh mâu thuẫn xảy ra vào thời điểm cả hai anh chị cùng đi xuất khẩu lao động tại Đài Loan. Dù anh chị làm việc gần nhau nhưng chị T không quan tâm đến anh, không sang thăm anh dẫn đến tình cảm vợ chồng ngày càng xa cách nhau. Sau khi về nước, chị T đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở không về chung sống với anh nữa. Vợ chồng sống ly thân từ năm 2017. Nay chị T xin ly hôn thì anh đồng ý ly hôn theo yêu cầu của chị T.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung như chị T đã trình bày. Hiện nay con đang sống với chị T. Sau khi ly hôn anh nhất trí để chị T tiếp tục nuôi dưỡng con chung, việc cấp dưỡng nuôi con không yêu cầu giải quyết.

Về tài sản chung, công nợ: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa hôm nay, chị T vẫn giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn, nuôi con chung, không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con; anh H xin xét xử vắng mặt.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Du phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật của thẩm phán, hội thẩm nhân dân, thư ký và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu quan điểm giải quyết vụ án:

Căn cứ các Điều 51; 81; 82; 83 - Luật hôn nhân và gia đình;

Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Vũ Thị Huyền T được ly hôn anh Đặng Ngọc H.

Về con chung: Giao cho chị T tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc con chung là Đặng Ánh D, sinh ngày 04/01/2014. Việc cấp dưỡng nuôi con không có yêu cầu.

Do các đương sự không yêu cầu giải quyết tài sản chung, trích chia công sức, công nợ nên không xem xét giải quyết.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, ý kiến của Kiểm sát viên,các đương sự trong vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, các đương sự trong vụ án hội đồng xét xử nhận định.

[1]. Tố tụng:

Chị T làm đơn xin ly hôn anh H nên xác định quan hệ pháp luật tranh chấp về hôn nhân và gia đình. Bị đơn là anh H đang cư trú trên địa bàn huyện Tiên Du nên vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân huyện Tiên Du quy định tại khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

Anh H đồng ý với yêu cầu xin ly hôn và nuôi con chung của chị T nhưng anh H không đến Tòa án làm việc nên đưa vụ án ra xét xử là đúng quy định [2]. Nội dung:

* Yêu cầu xin ly hôn: Chị Vũ Thị Huyền T và anh Đặng Ngọc H kết hôn vào ngày 11/12/2012 trên cơ sở đều tự nguyện và đăng ký kết hôn tại UBND xã Lạc Vệ, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh nên là quan hệ hôn nhân hợp pháp theo Luật Hôn nhân gia đình năm 2000. Quá trình chung sống, cuộc sống vợ chồng đã nảy sinh nhiều mâu thuẫn. Chị T cho rằng mâu thuẫn là do anh H ham chơi, đua đòi bạn bè, không chịu làm ăn, không quan tâm đến gia đình do vậy hai bên đã nảy sinh mâu thuẫn cãi nhau. Còn anh H thì cho rằng mâu thuẫn vợ chồng là do chị T không quan tâm, lo lắng cho anh. Cả chị T và anh H đều thừa nhận vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2017 cho đến nay. Chị T xin ly hôn anh H đồng ý ly hôn. HĐXX xét thấy: Cuộc sống vợ chồng của chị T và anh H không đạt được mục đích của cuộc hôn nhân tiến bộ, bình đẳng, hạnh phúc. Cuộc sống vợ chồng đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài. Chị T xin ly hôn, anh H cũng đồng ý. Xét sự thuận tình ly hôn của các đương sự là phù hợp pháp luật, cần chấp nhận.

Con chung: Anh chị có 01 con chung là Đặng Ánh D, sinh ngày 04/01/2014. Hiện con đang sống với chị T. Sau khi ly hôn chị T có nguyện vọng được nuôi con chung, không yêu cầu cấp dưỡng, anh H đồng ý với ý kiến của chị T. Xét thấy chị T làm việc tại nhà mẹ đẻ thu nhập hàng tháng khoảng 06 đến 07 triệu đồng. Anh H không có việc làm ổn định, con chung đang sống với chị T vẫn mạnh khỏe và phát triển tốt, để đảm bảo mọi quyền lợi cho con và tránh sự xáo trộn. Xét sự thỏa thuận của các đương sự là phù hợp, cần chấp nhận, giao cho chị T tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc con chung là cháu Đặng Ánh D, sinh ngày 04/01/2014. Chị T không yêu cầu cấp dưỡng nên không xem xét.

Chị T, anh H được thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định của các Điều 81,82,83 Luật hôn nhân và gia đình về việc nuôi dưỡng, thăm nom con sau khi ly hôn.

- Về tài sản chung, công nợ: Anh, chị đều không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

Về án phí: Chị T phải chịu án phí LHST.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 147; khoản 1 Điều 228; 271; 273 của Bộ luật tố tụng dân sự Điều 55, 81, 82, 83 Luật hôn nhân gia đình; Khon 5, Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án;

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Công nhận việc thuận tình ly hôn giữa chị Vũ Thị Huyền T và anh Đặng Ngọc H.

2. Về con chung: Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự: Chị T tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc con chung là Đặng Ánh D, sinh ngày 04/01/2014. Việc cấp dưỡng nuôi con không có yêu cầu.

Người không nuôi con có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Không lạm dụng việc thăm nom để gây cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

3.Về án phí: Chị Vũ Thị Huyền T phải chịu 300.000đ án phí dân sự ly hôn sơ thẩm được trừ số tiền 300.000đ tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai số AA/2015/000759, ngày 04/6/2019 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh.

Nguyên đơn có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận tống đạt bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

268
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 25/2019/HNGĐ-ST ngày 21/08/2019 về ly hôn, nuôi con chung

Số hiệu:25/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiên Du - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về