Bản án 25/2019/HNGĐ-ST ngày 08/03/2019 về ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NĐ, TỈNH NĐ

BẢN ÁN 25/2019/HNGĐ-ST NGÀY 08/03/2019 VỀ LY HÔN

Ngày 08 tháng 3 năm 2019, tại Trụ sở Toà án nhân dân thành phố NĐ, tỉnh NĐ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 513/2018/TLST- HNGĐ ngày 04 tháng 12 năm 2018 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 16/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 22-02-2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Thanh X, sinh năm 1987; nơi cư trú: Số nhà 81/78 đường Trần Bích S, phường Trần Quang K, thành phố NĐ, tỉnh NĐ (có mặt).

- Bị đơn: Anh Nguyễn Quang T, sinh năm 1983; nơi cư trú: Số nhà 61/2 Đò Q, phường Cửa N, thành phố NĐ, tỉnh NĐ (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện tranh chấp về hôn nhân và gia đình đề ngày 17-10-2018, trong quá trình tham gia tố tụng và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thanh X trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Thanh X và anh Nguyễn Quang T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường Trần Hưng Đạo, thành phố NĐ năm 2008. Sau khi kết hôn anh chị chung sống hạnh phúc được một năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng không hợp nhau, luôn bất đồng quan điểm. Anh T có hành vi bạo lực gia đình nên năm 2015 mẫu thuẫn căng thẳng chị đã không sống cùng anh T và vợ chồng ly thân từ đó cho đến nay. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn chị có nguyện vọng xin được ly hôn anh T.

Về con chung: Vợ chồng có một con chung là Nguyễn Sơn Tùng (giới tính: Nam), sinh ngày 25-4-2009. Nay ly hôn chị có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Chị không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Hiện nay chị làm công nhân may, mức thu nhập khoảng 5 triệu một tháng.

Về tài sản chung và vay nợ chung của vợ chồng: Chị xác định vợ chồng không có gì chung và không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân thành phố NĐ đã tiến hành tống đạt thông báo thụ lý vụ án, giấy triệu tập đương sự, thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ đối với anh Nguyễn Quang T theo quy định của pháp luật, anh T nhận các văn bản tố tụng nhưng từ chối ký nhận và cũng không đến Tòa án làm việc. Tại phiên tòa hôm nay: Anh T trình bày mâu thuẫn vợ chồng xảy ra từ năm 2015, nguyên nhân do chị X tự ý bỏ nhà đi để lại con cho anh nuôi dưỡng. Nay anh chấp nhận tha thứ cho chị X mong muốn vợ chồng hàn gắn mâu thuẫn để đoàn tụ. Về con chung: Nếu vợ chồng ly hôn anh cũng có nguyện vọng nuôi con nhưng nếu chị X xin nuôi con thì anh nhất trí giao con chung cho chị X trực tiếp nuôi dưỡng. Việc cấp dưỡng nuôi con chung: anh sẽ có trách nhiệm với con nhưng tùy thuộc vào thu nhập hàng tháng của anh. Hiện nay anh làm hàng mã, mức thu nhập khoảng 7-8 triệu đồng một tháng. Về tài sản chung, vay nợ chung: Vợ chồng không có gì.

Tại biên bản thu thập tài liệu chứng cứ ngày 07-01-2019 xác nhận vợ chồng chị X anh T không sống cùng nhau từ năm 2015, mỗi người một nơi. Vợ chồng anh chị có một con chung là Nguyễn Sơn Tùng, hiện nay cháu Tùng đang sống cùng anh T.

Tại đơn đề nghị ngày 19-02-2019 của cháu Nguyễn Sơn Tùng có nguyện vọng được ở với bố. Tại đơn đề nghị ngày 21-02-2019 của cháu Nguyễn Sơn Tùng thay đổi quan điểm có nguyện vọng được ở với mẹ.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố NĐ, tỉnh NĐ căn cứ Điều 21, Điều 262 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 nhận xét đánh giá: Về quá trình tiến hành tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký đã tuân thủ đúng các qui định của pháp luật. Về việc chấp hành pháp luật của các đương sự: Nguyên đơn, bị đơn đã chấp hành đúng quy định của pháp luật. Về việc giải quyết vụ án: Quan hệ hôn nhân giữa chị X và anh T là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống anh chị thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm. Nay hôn nhân đã lâm vào tình trạng trầm trọng, mâu thuẫn kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó căn cứ áp dụng Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 đề nghị Hội đồng xét xử xử ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Thanh X và anh Nguyễn Quang T. Về con chung: Xét nguyện vọng của chị X muốn được trực tiếp nuôi dưỡng con chung và cháu Tùng cũng có nguyện vọng sau được sinh sống cùng mẹ, anh T cũng nhất trí giao con cho chị X trực tiếp nuôi dưỡng. Vì vậy căn cứ Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đề nghị Hội đồng xét xử xem xét quyết định giao con là Nguyễn Sơn Tùng cho chị X trực tiếp nuôi dưỡng. Việc cấp dưỡng nuôi con chị X không yêu cầu giải quyết nên không đặt ra xem xét. Tài sản chung và vay nợ chung chị X, anh T xác định không có gì nên không đặt ra giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Thanh X và anh Nguyễn Quang T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, anh chị có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Trần Hưng Đạo, thành phố NĐ năm 2008 nên hôn nhân giữa chị X và anh T là hôn nhân hợp pháp.

[2] Về tình cảm: Sau khi kết hôn chị X và anh T chung sống hòa thuận hạnh phúc đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do tính cách vợ chồng không hòa hợp, luôn bất đồng quan điểm nên vợ chồng luôn xảy ra va chạm. Vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2015 cho đến nay. Nay chị X xác định tình cảm vợ chồng không còn và có nguyện vọng ly hôn anh T. Toà án thông báo hợp lệ hai lần phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hoà giải mâu thuẫn vợ chồng nhưng anh T vắng mặt không có lý do. Tại phiên tòa anh T có nguyện vọng vợ chồng tìm biện pháp khắc phục mâu thuẫn về đoàn tụ nhưng chị X xác định tình cảm vợ chồng không còn, không nhất trí đoàn tụ. Xét thấy tình trạng hôn nhân giữa chị X và anh T ngày càng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử có căn cứ cho ly hôn giữa chị X và anh T theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3] Về tranh chấp nuôi con: Xét nguyện vọng của chị X được trực tiếp nuôi con sau khi vợ chồng ly hôn, anh T cũng nhất trí giao con cho chị X trực tiếp nuôi dưỡng. Quan điểm của cháu Nguyễn Sơn Tùng không thống nhất nhưng nguyện vọng sau cháu mong muốn được ở với mẹ. Xuất phát từ lợi ích mọi mặt của con chung và nguyện vọng của các bên Hội đồng xét xử có căn cứ giao cháu Nguyễn Sơn Tùng cho chị X trực tiếp nuôi dưỡng theo quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình. Về cấp dưỡng nuôi con: Quan điểm của anh T không đưa ra mức cấp dưỡng cụ thể và chị X cũng không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử sẽ chấp nhận nguyện vọng của chị X là phù hợp với quy định của pháp luật.

[4] Về tài sản chung và vay nợ chung của vợ chồng: Chị X, anh T đều xác định vợ chồng không có gì nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét. 

[5] Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Thanh X phải chịu toàn bộ án phí.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Xử ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Thanh X và anh Nguyễn Quang T.

2. Về con chung: Giao con Nguyễn Sơn Tùng (giới tính: Nam), sinh ngày 25-4-2009 cho chị Nguyễn Thị Thanh X trực tiếp nuôi dưỡng. Chấp nhận sự tự nguyện của chị Nguyễn Thị Thanh X không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung.

Bên không trực tiếp nuôi con chung có quyền đi lại thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung. Không ai được hạn chế, cản trở các quyền này.

Bên không trực tiếp nuôi con chung có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi con, không được lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc giáo dục, nuôi dưỡng con của người trực tiếp nuôi con chung

3. Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Thanh X nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng. Khấu trừ khoản tiền tạm ứng án phí 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng chị Nguyễn Thị Thanh X đã nộp tại biên lai số 0000343 ngày 04-12-2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố NĐ. Chị Nguyễn Thị Thanh X đã nộp đủ.

Chị Nguyễn Thị Thanh X, anh Nguyễn Quang T có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

261
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 25/2019/HNGĐ-ST ngày 08/03/2019 về ly hôn

Số hiệu:25/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về