Bản án 25/2018/HSST ngày 31/07/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NGŨ HÀNH SƠN, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 25/2018/HSST NGÀY 31/07/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 31 tháng 7 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 23/2018/HSST ngày 02 tháng 7 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 25/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 7 năm 2018, đối với các bị cáo:

1. NGUYỄN ĐỨC K (Eerri, Henry) - Sinh năm: 1995 - Tại Đà Nẵng. Nơi ĐKNKTT và chỗ ở: Tổ 22 phường T, quận K, TP. Đà Nẵng. Nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Đức Đ và bà Huỳnh Thị Ngọc B. Tiền án: Không.

Nhân thân:

- Ngày 24/4/2013, bị TAND quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng xử phạt 18 tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản" (Bản án số: 14/2013/HSST).

- Ngày 10/6/2013, bị TAND quận Thanh Khê, TP. Đà Nẵng xử phạt 15 tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản" (Bản án số: 65/2013/HSST). Tổng hợp hình phạt với Bản án số:

14/2013/HSST của TAND quận Ngũ Hành Sơn, bị cáo phải chấp hành 33 tháng tù. Đã chấp hành xong hình phạt vào ngày 21/9/2015.

- Ngày 21/12/2016 bị TAND quận Thanh Khê, TP. Đà Nẵng áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong thời gian 15 tháng theo Quyết định số: 117/2016/QĐ-TA. Chấp hành xong ngày 05/10/2017 (Giấy chứng nhận số: 552).

- Ngày 06/3/2017, bị Công an quận Thanh Khê, TP. Đà Nẵng xử phạt hành chính 1.500.000 đồng về hành vi "Trộm cắp tài sản" (QĐ số: 13/QĐ-XPVPHC, chưa chấp hành).

- Ngày 19/12/2017, bị TAND quận Hải Châu, TP. Đà Nẵng xử phạt 15 tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản" (Bản án số: 108/2017/HSST). Hiện đang chấp hành án.

Bị cáo hiện đang bị bắt giam trong vụ án khác vào ngày 15/10/2017 – Có mặt tại phiên tòa.

2. LÊ BÁ T (T2) – Sinh năm 1993 – Tại Đà Nẵng. Nơi ĐKNKTT và chỗ ở: Tổ 23 phường T, quận K, TP. Đà Nẵng. Nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo Không; con ông: Lê Bá C và bà Lê Thị L.

Tiền án: Ngày 20/5/2015, bị TAND TP. Hội An, tỉnh Quảng Nam xử phạt 18 tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản" (Bản án số: 15/2015/HSST). Đã chấp hành xong ngày 01/4/2016. Tiền sự: không.

Nhân thân: Ngày 19/12/2017, bị TAND quận Hải Châu, TP. Đà Nẵng xử phạt 18 tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản" (Bản án số: 108/2017/HSST). Hiện đang chấp hành án.

Bị cáo đang bị bắt giam trong vụ án khác vào ngày 10/10/2017 – Có mặt tại phiên tòa.

Người bị hại: NBH – Sinh năm 1992.Trú tại: Đường H, phường K, quận N, TP Đà Nẵng – Vắng mặt.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: NLQ – Sinh năm 1978. tại: Tổ 21, phường T, quận K, TP Đà Nẵng – Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ ngày 03/10/2016, Lê Bá T đến nhà Nguyễn Đức K rủ K đi chơi. Do có ý định trộm cắp tài sản nên K mang theo 01 đoản phá khóa hình chữ T (T không biết việc này). T điều khiển xe mô tô BKS: 92F1-0579 chở K qua khu vực quận Ngũ Hành Sơn chơi. Khi đi trên đường Lê Văn Hiến thì K nói T chở đi lòng vòng khu vực đối diện Trung tâm Hành chính quận Ngũ Hành Sơn. Nghe K nói như vậy, thì T biết là đi tìm tài sản sơ hở để trộm cắp. Khi đi qua nhà số 89 đường H (Tổ 96, P. K, Q. N, TP. Đà Nẵng), K phát hiện có 01 xe mô tô hiệu Sirius BKS: 73H1-06210 của NBH đang dựng trước nhà nên nói T dừng xe. K đi bộ đến dùng đoản phá khóa, rồi điều khiển xe đến chỗ T đứng, sau đó K đi xe vừa trộm cắp được, T đi xe mô tô BKS: 92F1-0579 về khu vực nhà K. Tại đây, K nói T tìm người bán xe. T mang xe về nhà và đăng tin bán xe trên website "Chợ tốt". Đến ngày 04/10/2016, đối tượng tên T3 (chưa rõ lai lịch, địa chỉ) liên lạc với T để mua xe. Cả hai thống nhất giá 3.000.000đ và hẹn giao dịch tại quán cafe khu vực thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam (không rõ địa chỉ). Đến khoảng 09 giờ cùng ngày, T điều khiển xe Sirius BKS: 73H1-06210 đến quán cafe gặp T3 để giao xe và nhận tiền. Số tiền này, T và K đã tiêu xài hết.

* Tang vật tạm giữ: Xe mô tô hiệu Sirius BKS: 73H1-06210 không thu hồi được. Ngày 29/11/2016, Hội đồng định giá tài sản quận Thanh Khê, TP. Đà Nẵng kết luận:

Xe mô tô hiệu Yamaha Sirius BKS: 73H1-06210 có giá trị: 7.600.000 đồng.

Với nội dung trên, tại bản cáo trạng số: 26/CT-VKS-NHS ngày 29/6/2018 của Viện kiểm sát nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng thì các bị cáo Nguyễn Đức K và Lê Bá T bị truy tố về tội: "Trộm cắp tài sản" theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Ngũ Hành Sơn TP. Đà Nẵng thực hành quyền công tố nhà nước vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố Nguyễn Đức K và Lê Bá T về tội danh như đã nói trên và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng: khoản 1 Điều 173, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 56, Điều 58 Bộ luật hình sự 2015, Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội xử phạt Nguyễn Đức K từ 15 đến 18 tháng tù.

- Áp dụng: khoản 1 Điều 173, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38, Điều 56 Điều 58 Bộ luật hình sự 2015, Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội xử phạt Lê Bá T từ 15 đến 18 tháng tù.

* Về dân sự: Gia đình Nguyễn Đức K và Lê Bá T đã bồi thường 7.000.000đ cho NBH, NBH không có yêu cầu gì thêm và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt.

Các bị cáo nói lời sau cùng: Các bị cáo đều xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Khoảng 17 giờ ngày 03/10/2016, tại nhà số 89 đường H (Tổ 96, P. K, Q. N, TP. Đà Nẵng) Nguyễn Đức K và Lê Bá T đã có hành vi trộm cắp 01 xe mô tô hiệu Yamaha Sirius BKS: 73H1-06210 trị giá 7.600.000 đồng của NBH.

Hành vi nêu trên của các bị cáo Nguyễn Đức K và Lê Bá T đã phạm vào tội "Trộm cắp tài sản", tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 điều 173 Bộ luật hình sự như cáo trạng số 26/KSĐT ngày 29/6/2018 của Viện kiểm sát nhân dân Quận Ngũ Hành Sơn đã truy tố đối với bị cáo là đúng người, đúng tội và có căn cứ pháp luật.

[1] Xét tính chất vụ án, hành vi phạm tội của các bị cáo thì thấy: Hành vi của các bị cáo Nguyễn Đức K và Lê Bá T đã xâm hại đến khách thể là quyền sở hữu của người khác về tài sản được pháp luật bảo vệ. Các bị cáo cùng phạm tội nhưng giữa các bị cáo không có sự phân công bàn bạc, cấu kết chặt chẽ, đây chỉ là hình thức đồng phạm giản đơn nên Viện Kiểm sát đã truy tố các bị cáo theo khoản 1 Điều 173 BLHS đề nghị HĐXX áp dụng mức hình phạt như trên là phù hợp theo quy định của pháp luật.

Mặc dù các bị cáo phạm tội tại thời điểm tháng 10 năm 2016, hành vi phạm tội của các bị cáo bị điều chỉnh theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự 1999. Tuy nhiên, tại khoản 1 Điều 173 của BLHS 2015 về tội: “Trộm cắp tài sản” thì có mức hình phạt tương đương với khoản 1 Điều 138 BLHS năm 1999. Do đó, cần áp dụng Nghị quyết 41/2017QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội để xem xét trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo là đúng quy định của pháp luật. Hiện nay, các bị cáo đang chấp hành hình phạt tù đối với bản án số: 108/2017/HSST, ngày 19/12/2017 của TAND quận Hải Châu, TP. Đà Nẵng nên cần áp dụng Điều 56 BLHS năm 2015 để tổng hợp hình phạt của hai bản án đối với các bị cáo.

[2] Xét vai trò và nhân thân của từng bị cáo trong vụ án thì thấy :

Nguyễn Đức K là người có nhân thân rất xấu, bản thân bị cáo đã nhiều lần bị xử lý về hành vi “ Trộm cắp tài sản” và là đối tượng nghiện ma túy. Lẽ ra, sau những lần bị pháp luật xử lý và được trở về với cộng đồng bị cáo phải lấy đó làm những bài học cho bản thân. Nhưng bị cáo là người thiếu ý chí phấn đấu muốn thỏa mãn nhu cầu cá nhân bằng T quả lao động của người khác nên bị cáo đã tiếp tục đi vào con đường phạm tội. Trong vụ án, bị cáo cũng là người khởi xướng và trực tiếp thực hiện hành vi trộm cắp, bị cáo giữ vai trò chủ chốt trong vụ án. Hội đồng xét xử xét thấy cần xử phạt bị cáo một mức án tương xứng với mức độ và hành vi phạm tội của bị cáo mới có tác dụng giáo dục và răn đe đối với toàn xã hội.

Song xét thấy tại phiên tòa hôm nay, bị cáo T khẩn khai báo; trong quá trình điều tra bị cáo đã cùng bồi thường thỏa đáng cho người bị hại; người bị hại cũng đã có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, nên cần áp dụng điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS để xét giảm nhẹ cho bị cáo.

Đối với Lê Bá T là người đã có tiền án và nhân thân xấu về tội trộm cắp và có tuổi đời lớn hơn. Lẽ ra, khi nghe K nói T chở đi lòng vòng khu vực đối diện Trung tâm Hành chính quận Ngũ Hành Sơn thì T biết là đi tìm tài sản sơ hở để trộm cắp thì bị cáo phải ý thức được việc làm đó là tiếp tục đi vào con đường phạm tội và ngăn không cho K thực hiện hành vi phạm tội. Nhưng bị cáo đã không làm được điều đó mà lại đồng tình cùng với K thực hiện hành vi trộm cắp, mang xe về nhà và đăng tin bán xe trên website "Chợ tốt" để tiêu thụ tài sản; bị cáo phạm tội thuộc trường hợp “tái phạm”. Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS, xử phạt bị cáo một mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo mới có tác dụng giáo dục đối với bản thân bị cáo và răn đe các đối tượng khác có hành vi tương tự.

Song xét thấy tại phiên tòa hôm nay, bị cáo T khẩn khai báo và trong quá trình giải quyết vụ án, bị cáo đã cùng bồi thường thỏa đáng cho người bị hại; người bị hại cũng đã có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, nên cần áp dụng điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS để xét giảm nhẹ cho bị cáo một mức hình phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu.

Đối với NLQ là chủ sở hữu xe môtô BKS: 92F1-0579 hoàn toàn không biết việc Nguyễn Đức K sử dụng xe để thực hiện hành vi phạm tội nên không đề cập đến.

Đối với đối tượng tên T3 (chưa rõ lai lịch, địa chỉ) đã có hành vi tiêu thụ xe do Nguyễn Đức K và Lê Bá T trộm cắp mà có. Cơ quan CSĐT - Công an Q. Ngũ Hành Sơn tiếp tục điều tra làm rõ xử lý sau.

[3] Về dân sự: Gia đình Nguyễn Đức K và Lê Bá T đã bồi thường 7.000.000đ cho NBH, NBH không có yêu cầu gì thêm nên HĐXX không xem xét.

[4] Về án phí Hình sự sơ thẩm: Các bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

[5] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố xét xử: Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử, các Cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và những người tham gia tố tụng không có ý kiến khiếu nại gì nên HĐXX không xem xét.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

[1] Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Đức K và Lê Bá T phạm tội: "Trộm cắp tài sản"

Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 56 Bộ luật hình sự 2015; Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Đức K 18 (mười tám) tháng tù. Tổng hợp hình phạt 15 tháng tù với bản án số: 108/2017/HSST, ngày 19/12/2017 của TAND quận Hải Châu, TP. Đà Nẵng, buộc bị cáo phải chấp hành chung hình phạt của 02 bản án là 33 (ba mươi ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam, ngày 15/10/2017.

Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 56 Bộ luật hình sự 2015; Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội.

Xử phạt: Bị cáo Lê Đức T 15 (mười lăm) tháng tù. Tổng hợp hình phạt 18 tháng tù với bản án số: 108/2017/HSST, ngày 19/12/2017 của TAND quận Hải Châu, TP. Đà Nẵng, buộc bị cáo phải chấp hành chung hình phạt của 02 bản án là 33 (ba mươi ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam, ngày 10/10/2017.

[2] Về án phí: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án buộc các bị cáo Nguyễn Đức K và Lê Bá T mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm, báo cho những người tham gia tố tụng có mặt tại phiên tòa biết, có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Riêng những người tham gia tố tụng vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

401
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 25/2018/HSST ngày 31/07/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:25/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ngũ Hành Sơn - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về