Bản án 25/2018/HSST ngày 16/04/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DIÊN KHÁNH, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 25/2018/HSST NGÀY 16/04/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 16/4/2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Diên Khánh mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 18/2018/TLST-HS ngày 01 tháng 3 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 27/2018/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 3 năm 2018 đối với bị cáo:

Phạm Thành Nh, sinh năm: 1998; nơi cư trú: Thôn Phú Ân Nam 1, xã Diên An, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 01/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam;  con ông Phạm Thành Ph1 (sinh năm: 1972) và bà Nguyễn Thị Minh Ph2 (sinh năm: 1975); tiền án; tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 29/12/2017. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại:

1. Bà Thái Thị M, sinh năm: 1986

Địa chỉ: Thôn Phú Ân Nam 2, xã Diên An, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa.

 Bà M vắng mặt tại phiên tòa.

2. Ông Tống Mỹ H, sinh năm: 1969

Địa chỉ: Thôn Thanh Minh 3, xã Diên An, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa

Ông H vắng mặt tại phiên tòa.

3. Ông Lê Trí D1, sinh năm: 1966

Địa chỉ: Thôn Phú Ân Nam 4, xã Diên An, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa.

Ông D1 vắng mặt tại phiên tòa.

4. Chị Nguyễn Thị Kim C, sinh ngày 11/3/2000

Địa chỉ: Thôn Phước Trạch, xã Diên Toàn, huyện Diên Khánh tỉnhKhánh Hòa. Chị C có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Trần Ngọc L (Tý M), sinh năm: 1987

Địa chỉ: Thôn Phú Ân Nam 2, xã Diên An, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa.

Ông L vắng mặt tại phiên tòa.

2. Ông Nguyễn Bá Th, sinh năm: 1981

Địa chỉ: TDP Phú Lộc Đông 3, thị trấn Diên Khánh, huyện Diên Khánh,tỉnh Khánh Hòa.

Ông Th vắng mặt tại phiên tòa.

3. Bà Nguyễn Thị Minh Ph2, sinh năm: 1975

Địa chỉ: Thôn Phú Ân Nam 2, xã Diên An, huyện Diên Khánh, tỉnh 

Bà Phiến có mặt tại phiên tòa.- Người làm chứng:

1. Ông Nguyễn Thành Tr, sinh năm: 1983

2. Ông Huỳnh Văn D2, sinh năm: 1971

3. Ông Nguyễn Văn B, sinh năm: 1953

4. Ông Nguyễn Minh S, sinh năm: 1957

5. Ông Nguyễn Minh Đ, sinh năm: 1972

6. Ông Phạm Thành Ph3, sinh năm: 1972

7. Bà Lê Thị Kim B, sinh năm: 1947

8. Bà Trần Thị Ngọc T, sinh năm: 1965

Những người làm chứng đều vắng mặt, riêng ông Ph3 có mặt tại phiên tòa

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ ngày 08/11/2017, Phạm Thành Nh đi bộ tại khu vực thôn Phú Ân Nam 1, xã Diên An, huyện Diên Khánh tìm kiếm tài sản trộm cắp. Khi đi đến trước cửa hàng mua bán tôn Ngọc Luân, thấy có nhiều xe mô tô của người đến mua tôn đang dựng không có người trông coi, Nh đến dắt trộm xe mô tô BKS 79L3-9745 của chị Thái Thị M và rút dây bình điều khiển xe mô tô đi tìm nơi bán nhưng không ai mua nên đi đến các tiệm sửa xe tháo các phụ tùng như: Đầu đèn, mặt nạ nhựa đồng hồ, bô e gió, yếm chắn gió để lại các tiệm sửa xe, riêng biểm kiểm soát vứt tại bãi rác gần trường THPT Hoàng Hoa Thám – huyện Diên Khánh. Khoảng 10 giờ ngày 09/11/2017, khi Nh đang điều khiển xe mô tô BKS 79L3-9745 đi trên đường thì bị người dân nghi vấn nên giữ lại trình báo cơ quan Công an.

Quá trình điều tra, chứng minh được Phạm Thành Nh trước đó đã thực hiện 03 vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn thôn Phú Ân Nam 1, xã Diên An, huyện Diên Khánh cụ thể:

Vụ thứ nhất: Ngày 26/10/2017, Nh đi bộ qua nhà ông Nguyễn Minh S thấy có nhiều xe mô tô và xe đạp điện, Nh đã lén vào dắt chiếc xe đạp điện hiệu ASAMA của em Nguyễn Thị Kim C, sau đó đem bán cho một người phụ nữ (không xác định nhân thân lai lịch) trên đường tỉnh lộ thuộc xã Diên Điền, huyện Diên Khánh được 200.000 đồng. Số tiền trên Nh đã tiêu xài hết.

Vụ thứ hai: Ngày 03/11/2017, Nh đi qua nhà bà Lê Thị Kim B thấy trong sân nhà có nhiều xe mô tô không có người trông coi nên lén lút vào dắt trộm xe mô tô BKS 79F4-6195 của ông Tống Mỹ H, sau đó tháo biển kiểm soát bỏ lại bãi rác gần chợ xã Diên An và điều khiển xe đi tiêu thụ nhưng không được. Khoảng 4 giờ ngày 04/11/2017 khi Nh đang điều khiển xe mô tô trên thì bị Công an xã Diên An nghi vấn nên tạm giữ xe mô tô.

Vụ thứ ba: Ngày 07/11/2017 Nh đi qua cửa hàng mua bán tôn Ngọc Luân thấy có dựng nhiều xe mô tô không có người trông coi nên đến dắt trộm xe mô tô BKS 79K1-1859 của ông Lê Trí D, sau đó tháo biển kiểm soát đem bỏ tại bãi rác gần chợ xã Diên An rồi đem xe về nhà cất giữ. Sáng ngày 08/11/2017, Nh đem xe trộm cắp bán cho tiệm phế liệu của anh Nguyễn Bá Th được 500.000 đồng. Số tiền trên Nh đã tiêu xài hết.

Tại bản kết luận định giá về tài sản số 100 ngày 01/12/2017 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Diên Khánh xác định xe đạp điện hiệu ASAMA của em Nguyễn Thị Kim C có giá trị 2.250.000 đồng (Hai triệu hai trăm năm mươi nghìn đồng).

Tại kết luận định giá về tài sản số 101 ngày 01/12/2017 của Hội đồngđịnh giá trong tố tụng hình sự huyện Diên Khánh xác định xe mô tô BKS 79F4- 6195 của ông  Tống Mỹ H có giá trị 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng).

Tại kết luận định giá về tài sản số 102 ngày 01/12/2017 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Diên Khánh xác định xe mô tô BKS 79K1- 1895 của ông Lê Trí D có giá trị 4.000.000 đồng (Bốn triệu đồng).

Tại kết luận định giá về tài sản số 103 ngày 01/12/2017của Hội đồng định giá trong  tố tụng hình sự huyện Diên Khánh xác định xe mô tô BKS 79L3-7945 của chị Thái Thị M có giá trị 3.200.000 đồng (Ba triệu hai trăm nghìn đồng).

Các bị hại thống nhất và không có ý kiến gì về các kết luận định giá tài sản nêu trên.

Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa giữ nguyên nội dung Cáo trạng số 20/2018/CT-VKSDK ngày 28/12/2018 và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999; điểm p, r, s Khoản 1 Điều 51; điểm g Khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Phạm Thành Nh từ 18 đến 24 tháng tù.

Ý kiến bị hại chị Nguyễn Thị Kim C: Chị C đã nhận tiền bồi thường và không yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét, tại Tòa bị hại cũng xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Phạm Thành Nh.

Ý kiến người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Minh Ph2: bà Ph2 không yêu cầu bị cáo trả lại số tiền mình đã bồi thường cho bị hại, nên Hội đồng xét sử không xem xét .

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy nhưsau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và các bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

Các bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong hồ sơ đã có lời khai tại cơ quan điều tra và việc vắng mặt của họ không gây trở ngại cho việc giải quyết vụ án. Căn cứ vào các Điều 292, 293 của Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về nội dung vụ án: Bị cáo Phạm Thành Nh đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của các bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan,người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Như vậy, Cáo trạng số 20/CT-VKSDK ngày 28/02/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa truy tố bị cáo Phạm Thành Nh về tội “Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999 là có căn cứ, đúng pháp luật.

Xét hành vi của bị cáo Phạm Thành Nh là nguy hiểm cho xã hội, trong khoảng thời gian ngắn từ ngày 26/10/2017 đến ngày 08/11/2017 bị cáo đã liên tiếp thực hiện 04 vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn thôn Phú Ân Nam 1, xã Diên An, huyện Diên Khánh, chiếm đoạt xe đạp điện hiệu ASAMA của em Nguyễn Thị Kim C có giá trị 2.250.000 đồng; xe mô tô BKS 79F1-6195 của ông Tống Mỹ H có giá trị 10.000.000 đồng; xe mô tô BKS 79K1-1859 của ông Lê Trí D có giá trị 4.000.000 đồng; xe mô tô BKS 79L3-9745 của bà Thái Thị M có giá trị 3.200.000 đồng. Tổng giá trị tài sản mà bị cáo trộm cắp là 19.450.000 đồng (Mười chín triệu bốn trăm năm mươi nghìn đồng).  Hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân, gây tâm lý hoang mang, lo sợ cho người dân, cũng như gây mất trật tự trị an tại địa phương. Do đó, cần xử phạt một mức hình phạt nghiêm đối với bị cáo để đảm bảo tính giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung. Ngoài ra, bị cáo Phạm Thành Nh còn phạm tội nhiều lần nên cần áp dụng tình tiết tăng nặng quy định tại điểm g Khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự năm 1999.

Tuy nhiên, xét thấy bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã tự thú ba lần thực hiện hành vi trộm cắp trước đó, bị cáo đã tác động gia đình bồi thường cho bị hại, các bị hại cũng đã nhận lại tài sản và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo,bản thân bị cáo không có tiền án, tiền sự. Do đó, cần cho bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.

[3] Về trách nhiệm dân sự: Tại hồ sơ vụ án thể hiện bà Thái Thị M đã nhận lại chiếc xe mô tô BKS 79L3-7945, ông Tống Mỹ H đã nhận lại chiếc xe mô tô BKS 79F4-6195 và số tiền bồi thường 200.000 đồng, ông Lê Trí D nhận lại chiếc xe mô tô BKS 79K1-1859 và chị Nguyễn Thị Kim C đã nhận 2.000.000 đồng do mẹ bị cáo bồi thường.

Tại phiên tòa, chị Nguyễn Thị Kim C và bà Nguyễn Thị Minh Ph2 không không có yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét. Những bị hại bà Thái Thị M, ông Lê Trí D, ông Tống Mỹ H và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Bá Th, ông Trần Ngọc L vắng mặt nên tách ra giải quyết bằng vụ án dân sự khác khi có đơn yêu cầu.

[4] Về vật chứng vụ án: Căn cứ vào các Điều 41, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, Cơ quan điều tra đã trả lại tài sản cho chủ sở hữu hợp pháp, nên Hội đồng xét xử không giải quyết.

[5] Về án phí: Bị cáo Phạm Thành Nh phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 138; điểm p, b, o Khoản 1; Khoản 2  Điều 46 và điểm g Khoản 1 Điều 48  Bộ luật hình sự năm 1999; Căn cứ Điều 136, Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên bố: Bị cáo Phạm Thành Nh phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt:  Bị cáo Phạm Thành Nh 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 29/12/2017.

Về trách nhiệm dân sự: Tách ra giải quyết bằng vụ án dân sự khác khi có đơn yên cầu.

Về án phí: Bị cáo Phạm Thành Nh phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

345
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 25/2018/HSST ngày 16/04/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:25/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Diên Khánh - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/04/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về