Bản án 25/2018/HSST ngày 14/06/2018 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ C TỈNH KHÁNH HOÀ

BẢN ÁN 25/2018/HSST NGÀY 14/06/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 14 tháng 6 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố C, Hội đồng xét xử Tòa án nhân dân thành phố C mở phiên tòa để xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 16/2018/HSST ngày 06 tháng 4 năm 2018 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 20/2018/QĐXXST-HS ngày 08/5/2018 đối với bị cáo:

Nguyễn Thành T - Sinh năm: 1988

Nơi cư trú: Tổ dân phố Q, phường N. thành phố C, tỉnh Khánh Hòa.

Nghề nghiệp: Không; Văn hóa: 10/12; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Con ông: Nguyễn Văn C và bà Trần Thị Đ; Vợ, con: chưa; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 05/5/2007 bị Tòa án nhân dân thị xã C xử phạt 18 tháng tù về tội: “Trộm cắp tài sản”, 09 tháng tù về tội: “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.Tổng hợp hình phạt 27 tháng tù. Chấp hành xong hình phạt từ ngày 06/5/2008. Ngày 07/10/2016 bị Công an thành phố C xử phạt 750.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 05/01/2018 (Có mặt tại phiên tòa).

* Người bị hại: Nguyễn Văn N - Sinh năm:1983

Nơi cư trú: Thôn V, xã A, thành phố C, tỉnh Khánh Hòa. (Vắng mặt)

*Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

Tạ Thị H - Sinh năm: 1979

Nơi cư trú: Tổ dân phố H, phường P, thành phố C, tỉnh Khánh Hòa. ( Vắng mặt)

Nguyễn Thị M - Sinh năm: 1973

Nơi cư trú: Tổ dân phố T, phường N, thành phố C, tỉnh Khánh Hòa. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung của vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Thành T, Nguyễn Thị X sống chung với nhau tại phòng trọ của bà Tạ Thị H ở tổ dân phố Q, phường N, thành phố C. Khoảng 20 giờ ngày 04/01/2018, T mượn xe mô tô 79U1-8032 của Phan Nguyễn B đến khu vực chợ N, thành phố C cất dấu 01 ba lô bên trong có 01 kềm cộng lực, 02 ống kim loại dùng phá khóa cửa trộm cắp tài sản. Sau đó, T về lại phòng trọ trả xe cho B.

Đến khoảng 0 giờ 30 ngày 05/01/2018, T nói X chở về nhà của T ở phường N. Khi đến khu vực chợ N, T nói X dừng xe lại để đi bộ về nhà, còn X điều khiển xe đi về lại phòng trọ. T đến chỗ cất giấu lấy ba lô. Sau đó, T đi đến tiệm may của chị Nguyễn Thị M thuộc tổ dân phố T, phường N, thành phố C. T dùng kìm cộng lực cắt đứt móc ổ khóa rồi bỏ ổ khóa vào ba lô. T đến mở chốt cửa sau đi vào lối đi chung của các ki - ốt phía sau. T đến ki - ốt bán điện thoại di động Anh Th của anh Nguyễn Văn N, dùng kìm cộng lực cắt đứt móc khóa cửa, bỏ ổ khóa vào ba lô rồi mở cửa đi vào tiệm điện thoại lấy các tài sản gồm: 02 điện thoại di động Iphone 5s màu trắng; 01 điện thoại di động hiệu Iphone 5s màu đen; 02 điện thoại di động hiệu Iphone 6 màu vàng; 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6 màu trắng; 02 điện thoại di động hiệu Iphone 6 Plus màu vàng; 02 điện thoại di động hiệu Oppo A37 màu hồng; 01 điện thoại di động hiệu HTC M9 màu bạc; 01 điện thoại di động hiệu HTC M9 màu đen; 01 điện thoại di động hiệu HTC M8 màu đỏ; 01 điện thoại di động hiệu HTC M8 màu vàng; 02 điện thoại di động hiệu HTC Desire 530 màu xanh đen; 01 điện thoại di động hiệu Sony Xperia Z3 màu trắng; 01 điện thoại di động hiệu Vivo X5 màu vàng; 01 điện thoại di động hiệu SamSung S6 Edge màu trắng; 01 máy tính bảng Ipad2; 01 cục sạc điện thoại Nokia màu đen; 02 dây cáp sạc điện thoại màu vàng hiệu LOVESN; 01 dây cáp sạc SamSung màu trắng; 02 tai nghe Nokia màu đen; 150 thẻ cào điện thoại di động các mạng Viettel, Vinaphone, Mobiphoe, Gmobile, Vietnammobile (tổng trị giá 5.990.000 đồng) và 1.997.000 đồng. Tất cả tài sản lấy được T bỏ vào trong ba lô. T thấy trên vách tường có gắn Camera quan sát,T dùng tay bẻ tụ tích điện nhưng không được nên dùng bật lửa đốt phần nhựa phía sau Camera để nhựa tan chảy rồi dùng tay giật mạnh làm bung tụ tích điện Camera, T dùng kìm cắt đứt dây điện rồi bỏ tích tụ điện Camera vào ba lô.

Sau đó, T về lại phòng trọ. Khi về đến phòng trọ, không có chìa khóa vào phòng, T điện thoại nói X về mở cửa. X nói đợi lát nữa mới về. T dùng kìm cắt khóa cửa rồi vào phòng. T lấy 01 thẻ cào Viettel mệnh giá 50.000 đồng nạp vào số điện thoại của T để sử dụng và 01 thẻ cào Vianaphone mệnh giá 200.000 đồng nạp vào tài khoản game. Sau đó, T lấy 01 điện thoại di động hiệu SamSung S6 Edge chơi game, số tài sản còn lại T dùng tuốc nơ vít (loại bút thử điện) mở ốc vít nắp nhựa dưới đáy máy giặt rồi đem cất giấu vào trong.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 01 ngày 09/01/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố C kết luận: 24 chiếc điện thoại di động, 01 máy tính bảng, 150 thẻ cào điện thoại, 01 cục sạc, 03 dây cáp sạc, 02 tai nghe trên trị giá 103.941.000 đồng.

Bị cáo Nguyễn Thành T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Ngoài ra, Nguyễn Thành T khai nhận còn thực hiện trộm cắp tài sản tại cửa hàng điện thoại di động Tiến Đ ở tổ dân phố S, phường N, thành phố C và trộm cắp tài sản tại tiệm tạp hóa trên đưởng B. Hiện cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố C tiếp tục xác minh, điều tra làm rõ, xử lý sau.

Đối với hành vi của Nguyễn Thành T cắt đứt 02 ổ khóa cửa, trị giá 70.000 đồng, 01 chốt khóa cửa trị giá 40.000 đồng, cắt phá 01 tụ tích điện Camera trị giá 105.000 đồng, tổng giá trị tài sản thiệt hại dưới 2.000.000 đồng nên không truy cứu trách nhiệm hành sự.

Đối với hành vi của Nguyễn Thị X điều khiển xe chở T đến khu vực chợ N nhưng không biết T đi trộm cắp tài sản và không biết T cất dấu tài sản trộm cắp tại phòng trọ nên không truy cứu trách nhiệm hình sự.

Bản cáo trạng số: 17/VKS-HS ngày 05/4/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố C truy tố bị cáo Nguyễn Thành T về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo Nguyễn Thành T đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ Luật hình sự năm 2015 tuyên xử bị cáo Nguyễn Thành T về tội “Trộm cắp tài sản”, xử phạt bị cáo T từ 03 - 04 năm tù, về trách nhiệm dân sự: Người bị hại Nguyễn Văn N, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Tạ Thị H, Nguyễn Thị M không yêu cầu bị cáo bồi thường nên không xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

[1]. Cơ quan điều tra Công an thành phố C, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố C, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2].Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Thành T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với nội dung bản cáo trạng số: 17/VKS-HS ngày 05/4/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố C. Như vậy đã có đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Thành T có hành vi lén lút chiếm đoạt của anh Nguyễn Văn N 24 chiếc điện thoại di động, 01 máy tính bảng, 150 thẻ cào điện thoại, 01 cục sạc, 03 dây cáp sạc, 02 tai nghe có tổng trị giá 103.941.000 đồng (thuộc trường hợp chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng). Hành vi của bị cáo Nguyễn Thành T có đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Do đó, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố C truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ đúng pháp luật.

Đối với hành vi của Nguyễn Thành T cắt đứt 02 ổ khóa cửa, trị giá 70.000 đồng, 01 chốt khóa cửa trị giá 40.000 đồng, cắt phá 01 tụ tích điện Camera trị giá 105.000 đồng, tổng giá trị tài sản thiệt hại dưới 2.000.000 đồng nên không truy cứu trách nhiệm hành sự nên không xét..

Đối với hành vi của Nguyễn Thị X điều khiển xe chở T đến khu vực chợ N nhưng không biết T đi trộm cắp tài sản và không biết T cất dấu tài sản trộm cắp tại phòng trọ nên không truy cứu trách nhiệm hình sự nên không xét.

Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự xã hội ở địa phương, gây hoang mang lo lắng trong đời sống cộng đồng dân cư. Nhân thân bị cáo: Ngày 05/5/2007 bị Tòa án nhân dân thị xã C xử phạt 18 tháng tù về tội: “Trộm cắp tài sản”, 09 tháng tù về tội: “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Chấp hành xong hình phạt không chịu tu dưỡng bản thân, đến ngày 07/10/2016 bị Công an thành phố C xử phạt 750.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy và nay lại phạm tội. Do đó, cần phải xử lý nghiêm đối với bị cáo để giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

Tuy nhiên, xét thấy sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà an tâm cải tạo.

[3].Về trách nhiệm dân sự:

Người bị hại Nguyễn Văn N đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bị cáo bồi thường nên không xét.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Tạ Thị H, Nguyễn Thị M không yêu cầu bị cáo bồi thường nên Hội đồng xét xử không xét.

[4].Về vật chứng của vụ án bao gồm:

- 01 (Một) điện thoại di động hiệu Xiaomi M13 màu trắng

Xét thấy đây là tài sản của bị cáo T nên trả lại cho bị cáo T

- 01 (Một) tuốc nơ vít loại bút thử điện dài 13cm, cán bằng nhựa màu trắng trong dài 8cm.

- 02 (Hai) ống kim loại có đặc điểm giống nhau, một đầu có hàn gắn bulong dài 07cm, tổng cộng dài 33cm, đường kính 02cm.

Xét thấy không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

- 01 (Một) hộ chiếu tên Phạm Thị L.

Xét thấy đây là giấy tờ tùy thân của Phạm Thị L - sinh năm: 1988, trú tại

Số x ấp y xã Đ, huyện M, tỉnh Kiên Giang nên trả lại cho Phạm Thị L. [5].Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo qui định. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thành T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ Luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thành T 03 (Ba) năm tù. Thời hạn phạt tù tính từ ngày 05/01/2018.

Về trách nhiệm dân sự:

Người bị hại Nguyễn Văn N, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Tạ Thị H, Nguyễn Thị M không yêu cầu bị cáo bồi thường nên Hội đồng xét xử không xét.

Về vật chứng của vụ án: Áp dụng điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Thành T 01 (Một) điện thoại di động hiệu Xiaomi M13 màu trắng.

- Trả lại cho chị Phạm Thị L - sinh năm: 1988, trú tại Số x ấp y xã Đ, huyện M, tỉnh Kiên Giang 01 (Một) hộ chiếu mang tên Phạm Thị L.

- Tịch thu tiêu hủy 01 (Một) tuốc nơ vít loại bút thử điện dài 13cm, cán bằng nhựa màu trắng trong dài 8cm; 02 (Hai) ống kim loại có đặc điểm giống nhau, một đầu có hàn gắn bulong dài 07cm, tổng cộng dài 33cm, đường kính 02cm

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 11/4/2018 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thành phố C và Cơ quan thi hành án dân sự thành phố C).

Về án phí: Bị cáo Nguyễn Thành T phải nộp 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Nguyễn Thành T được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người bị hại Nguyễn Văn N, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Tạ Thị H, Nguyễn Thị M được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

295
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 25/2018/HSST ngày 14/06/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:25/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cam Ranh - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về