Bản án 248/2020/HNGĐ-ST ngày 30/12/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con 

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUỶ NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 248/2020/HNGĐ-ST NGÀY 30/12/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON 

Ngày 30 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 742/2020/TLST-HNGĐ ngày 16 tháng 10 năm 2020 về ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 271/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 25 tháng 11 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 201/2020/QĐST-HNGĐ ngày 16 tháng 12 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị K, sinh năm 1983; nơi cư trú: Thôn Đ, xã L, huyện T, thành phố Hải Phòng. Có mặt.

- Bị đơn: Anh Đinh Văn Đ, sinh năm 1982; nơi cư trú: Thôn Đ, xã L, huyện T, thành phố Hải Phòng. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Chị Nguyễn Thị K là nguyên đơn, khởi kiện với nội dung chị kết hôn với anh Đinh Văn Đ trên cơ sở được tìm hiểu tự nguyện, được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục. Chị và anh Đ đã đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện T, thành phố Hải Phòng vào ngày 09 tháng 02 năm 2006. Sau lễ cưới, chị về chung sống cùng với anh Đ tại thôn Đ, xã L, huyện T, thành phố Hải Phòng. Quá tình chung sống vợ chồng thường xảy ra mâu thuẫn nhỏ trong sinh hoạt, đến năm 2018 thì mâu thuẫn giữa chị K và anh Đ đã trở nên trầm trọng. Nguyên nhân là do anh Đ không quan tâm chăm lo vợ con, không cố gắng xây dựng kinh tế gia đình. Vợ chồng xảy ra cãi mắng xúc phạm nhau thường xuyên. Gia đình đã hòa giải, khuyên bảo anh Đ nhưng anh Đ vẫn không thay đổi, mâu thuẫn vợ chồng không được cải thiện. Chị K và anh Đ đã sống ly thân nhau. Nay, xác định tình cảm vợ chồng không còn khả năng đoàn tụ, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị ly hôn với anh Đinh Văn Đ. Chị K và anh Đ có ba con chung tên Đinh Nguyễn Hải Đ sinh ngày 04 tháng 10 năm 2006, Đinh Nguyễn Thảo N sinh ngày 12 tháng 9 năm 2010 và Đinh Nguyễn Tuệ T sinh ngày 31 tháng 10 năm 2017. Khi ly hôn, chị đề nghị Tòa án giao cho chị được trực tiếp nuôi dưỡng các con chung. Chị và anh Đ tự thỏa thuận về cấp dưỡng nuôi con, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về tài sản chung, chị và anh Đ tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết chia tài sản.

Anh Đinh Văn Đ là bị đơn, đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng khác song đến ngày mở phiên tòa, anh Đ vẫn không có văn bản trình bày quan điểm về việc chị Nguyễn Thị K xin ly hôn.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng như sau: Về thẩm quyền giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên đã tuân theo đúng quy định của pháp luật quy định tại Điều 28, Điều 35, Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã tiến hành giải quyết vụ án theo đúng trình tự thủ tục do pháp luật quy định. Nguyên đơn thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 71 và Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 72 và Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự. Về việc giải quyết vụ án: Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 147, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho chị Nguyễn Thị K được ly hôn anh Đinh Văn Đ; đề nghị giao các con Đinh Nguyễn Hải Đ, Đinh Nguyễn Thảo N, Đinh Nguyễn Tuệ T cho chị Nguyễn Thị K trực tiếp nuôi dưỡng. Người không trực tiếp nuôi con có quyền và nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Nguyên đơn nộp án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định.

[1] Về tố tụng

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Bị đơn là anh Đinh Văn Đ đã được tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do. Căn cứ khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về yêu cầu của chị Nguyễn Thị K ly hôn với anh Đinh Văn Đ Chị K và anh Đ kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đủ điều kiện kết hôn và có đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Do đó, kết hôn giữa chị K và anh Đ là hợp pháp. Tài liệu xác minh thể hiện nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong sinh hoạt. Anh Đ không quan tâm chăm sóc gia đình, nhiều lần có hành vi bạo lực với chị K. Gia đình đã hòa giải mâu thuẫn nhưng không có kết quả. Chị K và anh Đ hiện đã sống ly thân nhau. Chị K xin ly hôn, anh Đ nhận được thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng khác của Tòa án song đến ngày mở phiên tòa anh Đ không có ý kiến về việc chị K xin ly hôn, thể hiện anh Đ không quan tâm đến việc hàn gắn quan hệ vợ chồng. Điều này cho thấy mâu thuẫn giữa chị K và anh Đ đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị K xin ly hôn anh Đ.

[3] Về người trực tiếp nuôi con khi ly hôn và nghĩa vụ cấp dưỡng cho con Chị K và anh Đ có 03 con chung tên Đinh Nguyễn Hải Đ sinh ngày 04 tháng 10 năm 2006, Đinh Nguyễn Thảo N sinh ngày 12 tháng 9 năm 2010 và Đinh Nguyễn Tuệ T sinh ngày 31 tháng 10 năm 2017. Khi ly hôn, chị K đề nghị được trực tiếp nuôi cả ba con chung. Tuy nhiên để giao con chung cho ai nuôi thì cần phải xem xét mọi mặt và đảm bảo quyền lợi của con chưa thành niên. Xét thấy, tài liệu xác minh và đơn trình bày của các con chung tên Đinh Nguyễn Hải Đ và Đinh Nguyễn Thảo N đều thể hiện nguyện vọng được ở với mẹ. Con chung tên Đinh Nguyễn Tuệ T hiện còn nhỏ, mới được 39 tháng tuổi nên cần có sự chăm sóc của mẹ. Chị K là công nhân, có thu nhập ổn định đảm bảo đủ điều kiện nuôi dưỡng các con chung. Anh Đ không có văn bản trình bày quan điểm về con chung trong trường hợp anh và chị K ly hôn. Căn cứ vào quyền lợi mọi mặt của các con, điều kiện, hoàn cảnh của chị K, của anh Đ, nguyện vọng của con, Hội đồng xét xử xét giao cho chị Nguyễn Thị K trực tiếp nuôi các con tên Đinh Nguyễn Hải Đ, Đinh Nguyễn Thảo N và Đinh Nguyễn Tuệ T là phù hợp.

Cấp dưỡng nuôi con là nghĩa vụ của người không trực tiếp nuôi con. Anh Đ không có lời khai thể hiện quan điểm về việc cấp dưỡng nuôi con. Chị K đề nghị để chị và anh Khanh tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Xét đề nghị của đương sự là tự nguyện, quyền lợi của các con vẫn được đảm bảo nên Hội đồng xét xử giải quyết về cấp dưỡng cho con.

[4] Về tài sản chung, Chị Nguyễn Thị K không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung. Anh Đinh Văn Đ không có ý kiến về tài sản chung nên Hội đồng xét xử không giải quyết.

[5] Về án phí, chị Nguyễn Thị K phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, - Cho chị Nguyễn Thị K được ly hôn với anh Đinh Văn Đ.

- Giao cho chị Nguyễn Thị K trực tiếp nuôi dưỡng các con chung là Đinh Nguyễn Hải Đ sinh ngày 04 tháng 10 năm 2006, Đinh Nguyễn Thảo N sinh ngày 12 tháng 9 năm 2010 và Đinh Nguyễn Tuệ T sinh ngày 31 tháng 10 năm 2017 cho đến khi các con chung thành niên và có khả năng lao động, trừ trường hợp có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

- Chị Nguyễn Thị K phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Đối trừ với số tiền tạm ứng án phí đã nộp (ghi tại biên lai thu số 0002387 ngày 16/10/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thủy Nguyên), chị Nguyễn Thị K đã nộp đủ án phí.

- Chị Nguyễn Thị K có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Đinh Văn Đ có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7a và Điều 9 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

218
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 248/2020/HNGĐ-ST ngày 30/12/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con 

Số hiệu:248/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về