TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIA LÂM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 248/2020/HNGĐ-ST NGÀY 21/07/2020 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 21tháng 7năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gia Lâm, Thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 121/2020/TLST-HNGĐ ngày 24/4/2020về tranh chấp: “Ly hôn và tranh chấp về nuôi con”theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 38/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 19/6/2020 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn:Chị L, năm sinh 1987; đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn Phù Đổng 3, xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm, Thành phố Hà Nội.“Có mặt”.
- Bị đơn: Anh S, năm sinh 1985; đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn Phù Đổng 3, xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm, Thành phố Hà Nội.“Cómặt”.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, các lời khai tại Tòa án và tại phiên tòa, Chị Ltrình bày:
Về quan hệ vợ chồng: Chị L và anh S đăng ký kết hôn ngày 09/12/2008 tại Ủy ban nhân dân xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm, Thành phố Hà Nội, anh chị kết hôn trên cơ sở tự nguyện, không bị ai ép buộc. Sau khi kết hôn vợ chồng thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là vợ chồng chung sống không có tình cảm, không tôn trọng, không thương yêu nhau, thường xảy ra xô xát, anh S chơi bời không quan tâm đến vợ và con. Tháng 1/2020 vợ chồng sống ly thân không ai quan tâm đến ai. Nay chị xác định không còn tình cảm với chồng nên đề nghị Tòa án xem xét giải quyết cho ly hôn.
Về con chung: Vợ chồng có 03 con chung là cháu L, sinh ngày 24/9/2009, cháu Q sinh ngày 28/6/2012 và cháu K, sinh ngày 18/3/2017. Khi ly hôn, chị có nguyện vọng là người nuôi dưỡng cháu Quỳnh và cháu K và không yêu cầu chồng cấp dưỡng.
Về tài sản chung vợ chồng: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Anh S trình bày:
Về điều kiện, hoàn cảnh kết hôn, anh đồng ý với phần trình bày của Chị L. Về mâu thuẫn vợ chồng: Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống bình thường đến khoảng tháng 1/2020 thì Chị L bỏ về nhà bố mẹ ở Đông Anh sinh sống vợ chồng không còn quan hệ gì. Về mâu thuẫn vợ chồng theo anh S thì trước đây có chơi bời nhưng mấy năm gần đây anh S đã thay đổi, tu chí làm ăn. Anh không đồng ý ly hôn vì mâu thuẫn vợ chồng khôngcó gì nghiêm trọng. Về con chungnếu ly hôn anh xin nuôi cả 03 cháu không yêu cầu Chị L cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản, không đề nghị Tòa giải quyết.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm kiểm sát việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa phát biểu ý kiến: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử, đương sự chấp hành đúng quy định của pháp luật. Về đường lối giải quyết vụ án: Đề nghị Tòa án giải quyết cho Chị L được ly hôn với anh Sáng; về con chung: Giao cháu L, cháu Q cho anh S nuôi dưỡng, giao cháu K cho Chị L nuôi dưỡng, tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng đối với anh chị cho đến khi các cháu thành niên hoặc khi có sự thay đổi khác; về tài sản chung: Không phải giải quyết; về án phí: Chị L phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1].Về tố tụng: Về thẩm quyền giải quyết vụ án do Chị L có đơn yêu cầu ly hôn với anh S có nơi cư trú tại xã Phù Đồng, huyện Gia Lâm, Thành phố Hà Nội. Căn cứ khoản 1 Điều 28,điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình nên Tòa án nhân dân huyện Gia Lâm thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền.
[2].Về quan hệ hôn nhân: Quan hệ hôn nhân của anh chị là hôn nhân hợp pháp. Sau khi khi kết hôn thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân anh S chơi bời không quan tâm đến gia đình từ đó vợ chồng bất đồng quan điểm sống, vợ chồng không còn thương yêu, tôn trọng nhau nên cuộc sống vợ chồng không có hạnh phúc. Tháng 01/2020 thì vợ chồng sống ly thân từ đó đến nay không còn quan hệ gì. Anh S muốn đoàn tụ gia đình nhưng không đưa ra biện pháp gì thuyết phục Chị L, Chị L không đồng ý đoàn tụ vì đây lần thứ ba chị làm đơn ly hôn. Vì vậy, mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, đời sống chungkhông thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu ly hôn với anh Sáng của Chị Llà có căn cứ phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình.
[3].Về con chung vợ chồng: Nguyện vọng của anh, chị xin nuôi con chung là chính đáng, anh, chị đều có khả năng đảm bảo quyền lợi mọi mặt cho các cháu. Xét nguyện vọng của cháu L và cháu Q là xin ở với Bố nên giao anh S nuôi dưỡng hai cháu, còn cháu K còn nhỏ rất cần sự quan tâm đặc biệt của người mẹ nên giao cháu cho Chị L nuôi dưỡng là phù hợp. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung đối với anh, chị do anh anh, chị không yêu cầu.
[4].Về tài sản chung vợ chồng: Anh chị không yêu cầu nên Tòa án không phải giải quyết.
[5]. Về án phí ly hôn sơ thẩm:Chị Lien phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ các điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 và Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;
Căn cứ các điều 28, 35, 39, khoản 4 Điều 147, 271, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;
Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Liên được ly hôn với anh Đặng Bá Sáng.
2. Về con chung: Giao cháu L, sinh ngày 24/9/2009 và cháu Q sinh, ngày 28/6/2012 cho anh S nuôi dưỡng; giao cháu Đặng Bá Khôi, sinh ngày 18/3/2017 cho Chị L nuôi dưỡng. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung của anh, chị cho đến khi các cháu 18 tuổi hoặc khi có yêu cầu thay đổi khác.
Anh, chị có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.
3. Về tài sản chung vợ chồng: Không xem xét giải quyết.
4. Về án phí: Chị L phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí theo Biên lai số AA/2010/0005174 ngày 27/4/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gia Lâm, nay chuyển thành án phí.
5. Về quyền kháng cáo: Anh, chị có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 248/2020/HNGĐ-ST ngày 21/07/2020 về ly hôn và tranh chấp nuôi con
Số hiệu: | 248/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Gia Lâm - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 21/07/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về