Bản án 248/2019/HS-ST ngày 12/09/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁNNHÂN DÂN QUẬN ĐỐNG ĐA, TP. HÀ NỘI

BẢN ÁN 248/2019/HS-ST NGÀY 12/09/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 12 tháng 9 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân quận Đống Đa, Hà Nội, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 256/2019/TLST-HS ngày 22 tháng 8 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 269A/2019/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 09 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Phạm Thị N, sinh năm 1980; Giới tính: Nữ; HKTT: 78 cũ (24/145 mới) ngõ Văn Chương, phường Văn Chương, quận Đống Đa, Hà Nội; Nơi ở: số 19 ngõ 178/71 ngõ Chợ Khâm Thiên, phường Trung Phụng, quận Đống Đa, Hà Nội; Nghề nghiệp: Không; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Phạm Văn T (c ), con bà Lê Thị L; Chồng: Nguyễn TA;Tiền án, tiền sự: Ngày 11/6/1999, Công an quận Đống Đa xử lý hành chính về hành vi trộm cắp tài sản; Ngày 31/3/2000, Công an huyện Thanh Trì xử lý hành chính về hành vi trộm cắp tài sản; Ngày 02/11/2000, Công an quận Đống Đa đưa đi cơ sở giáo dục; 28/11/2002, Công an quận Cầu Giấy xử lý hành chính về hành vi trộm cắp tài sản; Tháng 10/2004, đi tập trung cai nghiện tại Trung tâm 06; Ngày 14/6/2006, Tòa án nhân dân quận Đống Đa xử phạt 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản; Ngày 30/10/2006, Tòa án nhân dân quận Tây Hồ xử phạt 08 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản; Ngày 31/01/2013, Công an phường Thanh Xuân Trung xử phạt hành chính về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy; Ngày 14/10/2015, Công an phường Văn Chương xử phạt hành chính về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy; Ngày 04/4/2018, Cơ quan CSĐT Công an huyện Gia Lâm khởi tố bị can Phạm Thị N về hành vi Trộm cắp tài sản.Ngày 04/8/2018, Cơ quan CSĐT Công an huyện Gia Lâm tạm đình chỉ điều tra bị can Phạm Thị N. Lệnh bắt tạm giam bị cáo từ ngày 26/8/2015 đến ngày 01/9/2015 Hủy bỏ biện pháp ngăn chặn: Tạm giam ,thay thế biện pháp ngăn chặn: Cấm đi khỏi nơi cư trú từ; Quyết định số 14 ngày 20/12/2015 tạm đình chỉ điều tra vụ án. Quyết định phục hồi điều tra vụ án số 10 ngày 03/5/2019. Danh chỉ bản số 490 ngày 12/6/2019 do Công an quận Đống Đa lập. Bị cáo có mặt.

Bị hại: Anh Nguyễn Quang Đ, sinh năm 1985; nơi cư trú: Tập thể 8/3 Quỳnh Mai, Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội.Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19h ngày 20/5/2015, Phạm Thị N dẫn theo hai con nhỏ đến cửa hàng quần áo số 43 Tôn Đức Thắng, Quốc Tử Giám, Đống Đa, Hà Nội. Tại đây, N đã mua quần áo cho con nhỏ với tổng số tiền là: 640.000đồng. Lợi dụng lúc nhân viên bán hàng Nguyễn Thị N Ánh đi đổi quần áo trên tầng 2, N đã lấy trộm chiếc Ipad Air màu trắng để tại quầy bán hàng là tài sản của anh Nguyễn Quang Đ cho vào túi nilon đựng quần áo màu xanh rồi thanh toán số tiền mua quần áo trên và ra khỏi cửa hàng. Khi anh Đ về biết mất trộm tài sản nên đã xem lại camera lắp trong cửa hàng phát hiện việc N đã lấy chiếc Ipad trên và đã ra công an phường Quốc Tử Giám để trình báo sự việc.

Kết luận định giá tài sản số 231/ĐGTS ngày 04/6/2015 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Đống Đa kết luận: Trị giá chiếc Ipad Air là: 6.500.000đồng.

Ti cơ quan Điều tra, Phạm Thị N không thừa nhận hành vi phạm tội của mình. N khai cầm nhầm chiếc Ipad trên vì nghĩ là của con trai N. Sau khi về nhà đưa Ipad cho con trai mới biết là cầm nhầm nên ngày hôm sau đã mang Ipad đến trả chủ cửa hàng. Đến giai đoạn truy tố Phạm Thị N thay đổi lời khai, N thừa nhận hành vi trộm cắp chiếc Ipad Air của anh Nguyễn Quang Đ.

Cơ quan CSĐT công an quận Đống Đa đã tiến hành điều tra củng cố tài liệu chứng cứ, tổ chức cho anh Nguyễn Quang Đ và chị Nguyễn Thị N Ánh là nhân viên bán hàng tại cửa hàng 43 Tôn Đức Thắng nhận dạng. Qua bản ảnh nhận dạng, anh Đ và chị N Ánh xác định Phạm Thị N chính là người trộm cắp chiếc Ipad Air ngày 20/5/2015. Tiến hành ghi lời khai những người thân trong gia đình N, tất cả mọi người đều khẳng định bản thân N từ trước đến khi xảy ra vụ án chưa từng mua bán hay sử dụng chiếc Ipad nào có đặc điểm như trên và con trai của N cũng không có chiếc Ipad nào.

Quá trình điều tra, bà Lê Thị L là mẹ đẻ của Phạm Thị N cho biết: N có biểu hiện tâm thần, thường xuyên đập phá đồ đạc. Bà L đã có đơn đưa Phạm Thị N đi chữa bệnh tâm thần. Ngày 20/12/2015, cơ quan CSĐT công an quận Đống Đa đã ra quyết định tạm đình chỉ điều tra vụ án hình sự do bị can N đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi nên không ra quyết định áp giải bị can đi giám định tâm thần.

Theo kết luận giám định pháp y tâm thần số 184 ngày 11/6/2019 của Viện pháp y Trung Ương kết luận: "Trước, trong khi thực hiện hành vi phạm tộ bị can Phạm Thị N có hội chứng nghiện nhiều loại ma túy. Theo phân loại bệnh quốc tế lần T 10 năm 1992 bệnh có mã số F19.2. Tại thời điểm giám định bị can không có bệnh tâm thần. Tại các thời điểm trên bị can đủ khả năng nhận Tc và điều khiển hành vi".

Ngày 22/5/2015, anh Nguyễn Quang Đ lên Công an phường Quốc Tử Giám xin rút lại đơn trình báo của mình vì lý do tối ngày 21/5/2015 Phạm Thị N đã đến cửa hàng 43 Tôn Đức Thắng và trả lại anh Đ chiếc Ipad. Ngoài ra, anh Đ không có đề nghị gì về dân sự.

Tại bản cáo trạng số 256/CT-VKSĐĐ ngày 19/8/2019 Viện kiểm sát nhân dân quận Đống Đa truy tố Phạm Thị N tội Trộm cắp tài sản quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát quận Đống Đa giữ nguyên quyết định truy tố sau khi phân tích tình tiết tăng nặng giảm nhẹ (bị cáo thành khẩn khai báo; đang nuôi con nhỏ; nhân thân xấu) đã đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015; Xử phạt bị cáo Phạm Thị N từ 08 đến 12 tháng tù.

-Bà L mẹ đẻ bị cáo trình bày: Trước đây, bị cáo ảo ma túy, nuôi con nhỏ một mình không có người khác chăm sóc nên tôi trình bày với cơ quan Điều tra là Phạm Thị N bị tâm thần để có thời gian ở nhà chăm con. Thực tế cháu N không bị bệnh tâm thần. Ngay hôm cháu N trộm cắp Ipad và bị chủ nhà phát hiện đăng clip lên mạng tôi đã cùng cháu N mang trả chiếc Ipad cho anh Đ.

-Bị cáo có ý kiến, bị cáo nhận Tc rõ hành vi của bị cáo là phạm tội Trộm cắp tài sản và mong tòa xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

1-Tại phiên toà hôm nay, qua xét hỏi, bị cáo Phạm Thị N khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa thống nhất với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp lời khai của người làm chứng, vật chứng thu được của vụ án. Đồng thời căn cứ vào bản kết luận định giá tài sản số: 361/ĐGTS ngày 12/9/2018 của Hội đồng định giá tài sản. Đủ cơ sở kết luận: Khoảng 19 giờ ngày 20/5/2015, tại cửa hàng quần áo số 43 Tôn Đức Thắng, phường Quốc Tử Giám, Đống Đa, Hà Nội, Phạm Thị N có hành vi trộm cắp của anh Nguyễn Quang Đ 01 chiếc Ipad Air màu trắng trị giá 6.500.000đồng của anh Nguyễn Quang Đ.

2-Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội Trộm cắp tài sản được quy định tại khoản 1 điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015.

3-Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội gây mất trật tự trị an, xâm phạm đến quyền sở hữu của công dân; Bị cáo là phụ nữ trưởng thành có sức khỏe, nhưng lười lao động muốn hưởng lời bất chính nên đã cố tình trộm cắp tài sản của người khác để bán lấy tiền tiêu xài.

Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo có thái độ ăn năn, hối cải, thành khẩn khai báo; bị cáo đang nuôi con nhỏ. Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự để giảm cho bị cáo một phần hình phạt.

Căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự, cân nhắc tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Xét thấy cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn nhằm trừng trị người phạm tội và giáo dục họ ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới, giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.

Ngoài hình phạt chính đáng lẽ bị cáo còn phải chịu thêm hình phạt bổ sung bằng tiền, song xét bị cáo không có khả năng thi hành hình phạt bổ sung bằng tiền nên Hội đồng xét xử miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Bị hại được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ:

-Khon 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; Điều 135, 331, 333, 336 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về về mức thu, miễn giảm thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên bố: Bị cáo Phạm Thị N phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Phạm Thị N 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

379
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 248/2019/HS-ST ngày 12/09/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:248/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Đống Đa - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về