TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK
BẢN ÁN 245/2019/HS-ST NGÀY 16/09/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 16 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 226/2019/TLST-HS ngày 16 tháng 8 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 230/2019/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 8 năm 2019 đối với bị cáo:
Họ và tên: Nguyễn Ngọc Đ;
Sinh ngày 06 tháng 6 năm 1986; Tại: H; Nơi cư trú: Thôn N 2, xã E, huyện EK, tỉnh Đắk Lắk; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Ngọc P và con bà Nguyễn Thị N; Bị cáo có vợ là Đỗ Thị H và có 02 con, con lớn sinh năm 2007 và con nhỏ sinh năm 2009;
Tiền án, tiền sự: Không Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 22/5/2019, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Buôn Ma Thuột – Có mặt tại phiên tòa.
- Bị hại: Bệnh viện đa khoa vùng T
Người đại diện theo pháp luật: ông Nguyễn Đại P – Chức vụ: Giám đốc Bệnh viện đa khoa vùng T.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Bùi Đức M – Chức vụ: Nhân viên phòng hành chính Bệnh viện đa khoa vùng T (Theo giấy ủy quyền ngày 07/6/2019 của Bệnh viện đa khoa vùng T)
Nơi cư trú: Số 12xA/xx T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. (Có mặt).
- Người có quyền nghĩa vụ liên quan: Bà Võ Thị Th, sinh năm 1981
Nơi cư trú: 23 N, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. (Vắng mặt)
- Người làm chứng: Ông Võ Khắc H, sinh năm 1961
Nơi cư trú: 27x/xx M, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk (Vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Ngọc Đ là đối tượng nghiện chất ma túy. Vào ngày 14/5/2019 và ngày 17/5/2019 Nguyễn Ngọc Đ thực hiện 02 vụ trộm cắp tài sản tại Bệnh viện đa khoa vùng T thì bị phát hiện, cụ thể như sau:
Vụ thứ nhất: Khoảng 01 giờ sáng ngày 14/5/2019, Nguyễn Ngọc Đ rủ Thương (không rõ nhân thân, lai lịch) đi trộm cắp tài sản, Thương đồng ý. Đ chuẩn bị: 01 con dao có lưỡi bằng kim loại, cán bằng gỗ và 01 chiếc kìm bằng kim loại, tay cầm bọc nhựa màu đỏ, kích thước (15x5,5x1)cm, cùng với Thương đi bộ đến Bệnh viện đa khoa vùng T, địa chỉ: 02 M, phường T, thành phố B, để trộm cắp tài sản, vì Đ biết Bệnh viện đa khoa vùng T đã chuyển đến cơ sở mới tại đường Trần Quý C, bệnh viện chỉ còn ít người qua lại nhưng tài sản còn nhiều. Khi đi đến nơi, Thương đứng ngoài cảnh giới còn Đ trèo hàng rào vào trong khuôn viên Bệnh viện. Đ đi đến khu vực chứa hệ thống dây cáp điện ngầm phía sau phòng phân phối điện thì thấy tấm bê tông mở phía dưới có nhiều dây cáp điện, trong đó có: 01 dây cáp điện có vỏ ngoài màu đen, đường kính 05cm, bên trong có 04 lõi dây kim loại màu đồng, gồm 03 lõi loại (03x95) mm2 và 01 lõi loại (01x70) mm2, nhãn hiệu Đại Long đã bị cắt đứt. Đ đi bộ dọc theo hệ thống chứa dây cáp điện khoảng 8m thì dừng lại dùng tay lật mở tấm bê tông, rồi tìm đoạn dây cáp điện bị cắt đứt trên dùng dao cắt vỏ dây cáp điện và dùng kìm cắt dây cáp điện. Sau đó, Đ kéo đoạn dây cáp điện trộm cắp dài khoảng 08m, ra khỏi hệ thống chứa dây cáp điện, đem ra ngoài cùng với T tẩu thoát. Đ và Thương đem đoạn dây cáp điện trộm cắp được đến khu vực nghĩa địa Phan Bội Châu, cất giấu. Đến Khoảng 10 giờ cùng ngày, Đ một mình đến nơi cất giấu 08m dây cáp điện trộm cắp, dùng dao rọc giấy cắt hết vỏ nhựa bên ngoài đốt cháy lấy lõi dây đồng đem đến bán cho chị Võ Thị Th, sinh năm: 1981, trú tại: 23 N, phường T, thành phố B. Chị Th cân số dây đồng được 28 kg và trả cho Đ số tiền 2.520.000 đồng, Đ đã lấy tiền và tiêu xài cá nhân, mua ma túy sử dụng hết. Sau đó chị Th bán số dây đồng mua của Đ cho người thu mua phế liệu (không rõ nhân thân, lai lịch) với số tiền 2.600.000 đồng, nên Cơ quan điều tra không tạm giữ được. Sau khi bị trộm cắp tài sản anh Bùi Đức M (Nhân viên phòng Hành chính quản trị, được giám đốc Bệnh viện đa khoa vùng T ủy quyền), làm đơn trình báo đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, để xử lý. Cơ quan điều tra tạm giữ: 01 con dao kim loại có cán bọc nhựa màu đen, kích thước (30x6,5x1,5)cm và 01 chiếc kìm cắt dây điện tay cầm bọc nhựa màu đỏ, để phục vụ công tác điều tra; Đối với: 01con dao có lưỡi bằng kim loại, cán bằng gỗ và 01 con dao rọc giấy, sau khi phạm tội, Đ đã vứt bỏ nên cơ quan điều tra không thu giữ được.
Tại bản kết luận định giá tài sản số: 168/KLĐG ngày 14 tháng 6 năm 2019, của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Buôn Ma Thuột, kết luận: 08 mét dây cáp điện có vỏ ngoài màu đen, đường kính 05cm, bên trong có 04 lõi dây kim loại màu đồng, gồm 03 lõi loại (03x95) mm2 và một lõi loại (01x70) mm2, nhãn hiệu Đại Long, trọng lượng 37kg, trị giá 1.665.000 đồng.
Quá trình điều tra xác định: 08 mét dây cáp điện có vỏ ngoài màu đen, đường kính 05cm, là tài sản của Bệnh viện đa khoa vùng T. Anh Bùi Đức M yêu cầu Nguyễn Ngọc Đ bồi thường số tiền 1.665.000 đồng (là trị giá 08 m dây cáp điện bị trộm cắp).
Vụ thứ hai: Khoảng 23 giờ 30 phút ngày 17/5/2019, Nguyễn Ngọc Đ chuẩn bị: 01 con dao có lưỡi bằng kim loại dài 18cm, rộng 8cm, cán bằng gỗ quấn dây cao su màu đen, dài 31,5cm; 01 tuốc nơ vít thử điện màu trắng, dài 13cm; 01 cây kéo bằng kim loại, dài 20cm, cán bọc lớp mút màu xám trắng; 01 thanh kim loại, kích thước (147x1,5x01)cm, hai đầu được mài dẹp, đi bộ đến Bệnh viện đa khoa vùng T cũ, địa chỉ: 02 M, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, trèo tường rào đột nhập vào trong khuôn viên Bệnh viện để trộm cắp tài sản. Đ đi đến khu vực chứa hệ thống dây cáp điện ngầm ở phía sau dãy nhà khoa truyền nhiễm của Bệnh viện, quan sát xung quanh thấy không có người trông coi nên dùng cây sắt cạy nắp bê tông ra. Đ dùng dao cắt lớp vỏ nhựa dây cáp điện và dùng kéo cắt dây đồng của 02 đoạn dây cáp điện màu đen bên trong có 04 dây điện có nhiều lõi đồng, đường kính 05cm, dài 8,7m, tổng chiều dài hai đoạn dây cáp điện là 17,35m; 02 dây cáp điện màu đen, bên trong có 04 dây điện có nhiều lõi đồng đường kính 2,5cm, dài 18m, tổng chiều dài hai đoạn dây cáp điện là 22,5m. Sau khi cắt xong 04 đoạn dây cáp điện trên, Đ cuộn tròn các đoạn dây cáp điện đem ra cổng phụ của Bệnh viện thuộc đường Y, phường T, thành phố B, để đi tiêu thụ thì bị anh Võ Khắc H (bảo vệ của Bệnh viện) phát hiện nên Đ bỏ lại các đoạn dây cáp điện trộm cắp, chạy tẩu thoát.
Ngày 18/5/2019 anh H đã trình báo đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, để giải quyết. Cơ quan điều tra đã tạm giữ: 04 đoạn dây cáp điện, 01 con dao có lưỡi bằng kim loại dài 31cm; 01 tuốc nơ vít thử điện màu trắng, dài 13cm; 01 cây kéo bằng kim loại, dài 20cm, cán bọc lớp mút màu xám trắng; 01 thanh kim loại, kích thước (147x1,5x01)cm, hai đầu được mài dẹp, là các tang vật chứng của vụ án để xử lý theo quy định của pháp luật.
Tại bản kết luận định giá tài sản số: 160/KLĐG ngày 04 tháng 6 năm 2019, của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Buôn Ma Thuột, kết luận: 01 dây cáp điện màu đen, đường kính 5cm, dài 8,7m; 01 dây cáp điện màu đen, đường kính 5cm, dài 8,65m; 01 dây cáp điện màu đen, đường kính 2,5cm, dài 18m và 01 dây cáp điện màu đen, đường kính 2,5cm, dài 7,5m (đã qua sử dụng).
Tổng trọng lượng là 105,3 kg, trị giá là: 4.738.500 đồng.
Tại bản cáo trạng số: 246/CT-VKS BMT ngày 16/8/2019 Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột, đã truy tố Nguyễn Ngọc Đ về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Ngọc Đ đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như bản Cáo trạng mà đại diện Viện kiểm sát đã truy tố.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột đã phân tích, chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản”; Áp dụng khoản 1 Điều 173; các điểm h,s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; Đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc Đ mức án từ 12 tháng đến 15 tháng tù.
Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Điều 585, Điều 589 Bộ luật dân sự.
Chấp nhận Cơ quan cảnh sát điều tra ra quyết định xử lý vật chứng trả cho anh Bùi Đức M (người đại diện theo ủy quyền của Bệnh viện đa khoa vùng T) 01 dây cáp điện màu đen, đường kính 5cm, dài 8,7m; 01 dây cáp điện màu đen, đường kính 5cm, dài 8,65m; 01 dây cáp điện màu đen, đường kính 2,5cm, dài 18m và 01 dây cáp điện màu đen, đường kính 2,5cm, dài 7,5m (đã qua sử dụng), là tài sản của Bệnh viện đa khoa vùng T nhận quản lý sử dụng.
Đối với: 01 chiếc kìm bằng kim loại, tay cầm bọc nhựa màu đỏ, kích thước (15x5,5x1)cm (vụ thứ nhất) ; 01 con dao có lưỡi bằng kim loại dài 18cm, rộng 8cm, cán bằng gỗ quấn dây cao su màu đen, dài 31,5cm; 01 tuốc nơ vít thử điện màu trắng, dài 13cm; 01 cây kéo bằng kim loại, dài 20cm, cán bọc lớp mút màu xám trắng; 01 thanh kim loại, kích thước (147x1,5x01)cm, hai đầu được mài dẹp (vụ thứ hai), là các công cụ bị cáo Nguyễn Ngọc Đ dùng vào việc phạm tội, nên cần tịch thu tiêu hủy.
Về trách nhiệm dân sự: bị cáo Nguyễn Ngọc Đ phải bồi thường cho Bệnh viện đa khoa vùng T số tiền 1.665.000 đồng là số tiền bị cáo bán 08m dây cáp điện có vỏ ngoài màu đen, đường kính 5cm.
Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Ngọc Đ không bào chữa tranh luận gì, chỉ đề nghị hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Tại phiên tòa người đại diện theo ủy quyền của bị hại ông Bùi Đức M trình bày: Ông đồng ý với quan điểm của đại diện VKS về phần tội danh, điều luật áp dụng. Do tình hình tội trộm cắp ngày càng tăng nên đề nghị HĐXX xem xét áp dụng một mức hình phạt đối với bị cáo theo đúng quy định của pháp luật, về trách nhiệm dân sự đề nghị buộc bị cáo phải bồi thường cho Bệnh viện đa khoa vùng T số tiền 1.665.000 đồng là tiền bị cáo đã bán 8m dây cáp điện theo bản kết luận định giá tài sản của Hội đồng định giá tài sản.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, của Viện Kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Về sự vắng mặt của những người tham gia tố tụng: Xét thấy tại cơ quan điều tra người có quyền nghĩa vụ liên quan chị Võ Thị Th và người làm chứng ông Võ Khắc H đã có lời khai đầy đủ, Tòa án đã tiến hành triệu tập hợp, sự vắng mặt của họ không ảnh hưởng tới quá trình giải quyết vụ án. Do đó căn cứ vào Điều 292, Điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử quyết định vẫn tiến hành xét xử vắng mặt họ.
[2] Về nội dung:
[2.1] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của những người tham gia tố tụng và các tài liệu chứng cứ khác thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Hành vi của bị cáo đã lén lút thực hiện 02 vụ trộm cắp dây cáp điện của Bệnh viện đa khoa vùng T vào các ngày 14/5/2019 và ngày 17/5/2019. Tổng trọng lượng dây cáp điện bị cáo đã lấy trộm được là 142,3 kg dây điện (37kg dây cáp điện đường kính 5cm, bên trong có 04 lõi dây kim loại màu đồng gồm 03 lõi loại 03x95mm2 và 105,3kg dây cáp điện trong đó có 01 dây cáp điện màu đen đường kính 5cm, dài 8,7m; 01 dây cáp điện màu đen đường kính 5cm, dài 8,65m; 01 dây cáp điện màu đen đường kính 2,5cm, dài 18m; 01 dây cáp điện màu đen đường kính 2,5cm, dài 7,5m). Trị giá tài sản bị cáo trộm cắp được là 6.403.500 đồng. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.
Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015, quy định:
“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
Xét tính chất mức độ hành vi của bị cáo Nguyễn Ngọc Đ gây ra là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ mà còn gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo là người có đủ khả năng nhận thức được tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, mọi hành vi xâm phạm trái pháp luật đều bị xử lý. Tuy nhiên do ý thức coi thường pháp luật, tham lam tư lợi nên bị cáo đã cố ý lén lút 02 lần thực hiện lấy trộm dây cáp điện trong Bệnh viện, tổng giá trị tài sản bị cáo lấy được là 6.403.500 đồng, do đó bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi mà bị cáo gây ra. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk truy tố bị cáo Nguyễn Ngọc Đ theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Do đó Hội đồng xét xử xét thấy cần có mức án đủ nghiêm, buộc cách ly bị cáo này ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung trong xã hội.
[2.2] Về nhân thân, tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:
Xét về nhân thân, bị cáo là người có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp gây thiệt hại không lớn. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h,s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, do đó Hội đồng xét xử xét thấy cần xem xét để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo thể hiện chính sách nhân đạo khoan hồng của pháp luật nhà nước ta.
[2.3] Quá trình điều tra, người đại diện theo ủy quyền anh Bùi Đức Minh còn xác định: Vào ngày 18/5/2019, Bệnh viện đa khoa vùng T còn bị trộm cắp: 07 dây cáp điện có vỏ ngoài màu đen, loại dây CV 03 lớp 150mm2, bên trong có 19 lõi dây kim loại đồng, mỗi lõi dây kim loại đồng có đường kính 0,5cm, trọng lượng 77kg. Hiện Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, chưa chứng minh được đối tượng trộm cắp. Do vậy, Cơ quan điều tra tách ra khỏi vụ án để tiếp tục điều tra xác minh xử lý sau.
[2.4] Đối với đối tượng tên Thương là người cùng với bị cáo Nguyễn Ngọc Đ thực hiện trộm cắp tài sản (trong vụ thứ nhất) tại Bệnh viện đa khoa vùng T, Cơ quan điều tra chưa xác minh được nhân thân lai lịch nên tách ra khỏi vụ án để tiếp tục điều tra xử lý sau là phù hợp.
Đối với chị Võ Thị Th là người nhận mua 28 kg dây đồng trộm cắp của bị cáo Nguyễn Ngọc Đ nhưng chị Th không biết đây là tài sản do Đ phạm tội mà có nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý, là phù hợp.
Đối với: 01 con dao có lưỡi bằng kim loại, cán bọc nhựa màu đen, kích thước (30x6,5x1,5)cm, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, tạm giữ (trong vụ thứ nhất). Bị can Nguyễn Ngọc Đ không dùng để phạm tội. Cơ quan điều tra chưa xác định được nguồn gốc cùa con dao, nên tách ra khỏi vụ án để tiếp tục xác minh, xử lý sau.
[2.5] Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Nguyễn Ngọc Đ. Ngày 02/7/2019 Công an thành phố Buôn Ma Thuột, đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính, theo quy định tại khoản 1, Điều 21, Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ, bằng hình thức Cảnh cáo là phù hợp.
[2.6] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 46, Điều 47, Điều 48 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 585, 589 Bộ luật Dân sự.
Chấp nhận Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột đã trả lại: 01 dây cáp điện màu đen, đường kính 5cm, dài 8,7m; 01 dây cáp điện màu đen, đường kính 5cm, dài 8,65m; 01 dây cáp điện màu đen, đường kính 2,5cm, dài 18m và 01 dây cáp điện màu đen, đường kính 2,5cm, dài 7,5m (đã qua sử dụng), cho anh Bùi Đức M (là người được Bệnh viện đa khoa vùng T, ủy quyền) nhận quản lý, là phù hợp.
Đối với: 01 chiếc kìm bằng kim loại, tay cầm bọc nhựa màu đỏ, kích thước (15x5,5x1)cm (vụ thứ nhất) ; 01 con dao có lưỡi bằng kim loại dài 18cm, rộng 8cm, cán bằng gỗ quấn dây cao su màu đen, dài 31,5cm; 01 tuốc nơ vít thử điện màu trắng, dài 13cm; 01 cây kéo bằng kim loại, dài 20cm, cán bọc lớp mút màu xám trắng; 01 thanh kim loại, kích thước (147x1,5x01)cm, hai đầu được mài dẹp (vụ thứ hai), là các công cụ bị cáo Nguyễn Ngọc Đ dùng vào việc phạm tội, nên cần tịch thu tiêu hủy.
Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo Nguyễn Ngọc Đ phải bồi thường cho Bệnh viện đa khoa vùng T, số tiền 1.665.000 đồng (trị giá 8m dây cáp điện bị trộm cắp).
[2.8] Về án phí: bị cáo Nguyễn Ngọc Đ phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Căn cứ khoản 1 Điều 173; các điểm h,s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc Đ 01 (một) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam (ngày 22/5/2019).
* Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 46, Điều 47, Điều 48 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 585, 589 Bộ luật Dân sự.
- Chấp nhận Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột đã trả lại: 01 dây cáp điện màu đen, đường kính 5cm, dài 8,7m; 01 dây cáp điện màu đen, đường kính 5cm, dài 8,65m; 01 dây cáp điện màu đen, đường kính 2,5cm, dài 18m và 01 dây cáp điện màu đen, đường kính 2,5cm, dài 7,5m (đã qua sử dụng), cho anh Bùi Đức M (là người được Bệnh viện đa khoa vùng T, ủy quyền) nhận quản lý, là phù hợp.
- Tịch thu tiêu hủy đối với: 01 chiếc kìm bằng kim loại, tay cầm bọc nhựa màu đỏ, kích thước (15x5,5x1)cm (vụ thứ nhất) ; 01 con dao có lưỡi bằng kim loại dài 18cm, rộng 8cm, cán bằng gỗ quấn dây cao su màu đen, dài 31,5cm; 01 tuốc nơ vít thử điện màu trắng, dài 13cm; 01 cây kéo bằng kim loại, dài 20cm, cán bọc lớp mút màu xám trắng; 01 thanh kim loại, kích thước (147x1,5x01)cm, hai đầu được mài dẹp (vụ thứ hai), là các công cụ bị cáo Nguyễn Ngọc Đ dùng vào việc phạm tội.
- Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo Nguyễn Ngọc Đ phải bồi thường cho Bệnh viện đa khoa vùng T, số tiền 1.665.000 đồng (trị giá 8m dây cáp điện bị trộm cắp).
* Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo Nguyễn Ngọc Đ phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 300.000 (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
Bị cáo, đương sự có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm ngày) ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai theo quy định của pháp luật.
Bản án 245/2019/HS-ST ngày 16/09/2019 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 245/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 16/09/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về