Bản án 242/2020/DS-ST ngày 13/08/2020 về đòi tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN PHÚ, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

 BẢN ÁN 242/2020/DS-ST NGÀY 13/08/2020 VỀ ĐÒI TÀI SẢN

Trong các ngày 03, 07 và ngày 13 tháng 8 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Tân Phú, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 02/2020/DSST ngày 02 tháng 01 năm 2020 về việc “Đòi tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 191/2020/QĐXXST- DS ngày 08 tháng 6 năm 2020, Quyết định hoãn phiên tòa số 277/2020/QĐST-DS ngày 03/07/2020 và Quyết định tạm ngừng phiên tòa số 394/QĐST- DS ngày 03/08/2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: bà Nguyễn Thu H1, sinh năm 1968 Địa chỉ : 48/2 T1, phường 4, quận T2, thành phố H1.

Người đại diện theo ủy quyền: ông Lê Bá Q1, sinh năm 1987 Địa chỉ : 9C Nguyễn Văn Hoa, phường Thống Nhất, thành phố Biên Hòa

2. Bị đơn: Ông  Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1976 Địa chỉ: 183/2T3, phường T4, quận T4, thành phố H1.

Người đại diện theo ủy quyền: ông Trần Quốc Đ2, sinh năm 1992 Địa chỉ: 19A Quốc lộ Z, ấp H2, xã B1, huyện H2, thành phố H1. (các đương sự có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 16/12/2019 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, đại diện nguyên đơn trình bày:

Bà Nguyễn Thu H1 và bà Nguyễn Thị Hương (vợ của ông  Nguyễn Văn Đ) là quan hệ chị em ruột nên bà H1 tin tưởng đưa tiền cho ông Đ mượn. Cụ thể như sau:

+ Ngày 02/10/2014 bà H1 cho ông Đ mượn số tiền 1.000.000.000 đồng (Một tỷ đồng); thời hạn mượn là 11 tháng từ ngày 15/01/2014 đến ngày 15/11/2014; việc mượn tiền có lập hợp đồng mượn tiền.

+ Ngày 06/11/2014 bà H1 cho ông Đ mượn số tiền 1.000.000.000 đồng (Một tỷ đồng); thời hạn mượn là 06 tháng từ ngày 06/11/2014 đến ngày 06/05/2015; việc mượn tiền có lập hợp đồng mượn tiền.

+ Ngày 11/11/2014 bà H1 cho ông Đ mượn số tiền 700.000.000 đồng (Bảy trăm triệu đồng); thời hạn mượn là 4 tháng từ ngày 11/11/2014 đến ngày 11/03/2015; việc mượn tiền có lập hợp đồng mượn tiền.

+ Ngày 24/09/2015 bà H1 cho ông Đ mượn số tiền 1.000.000.000 đồng (Một tỷ đồng); thời hạn mượn là 6 tháng từ ngày 24/09/2015 đến ngày 24/03/2016; việc mượn tiền có lập hợp đồng mượn tiền

+ Ngày 31/10/2015 bà H1 cho ông Đ mượn số tiền 200.000.000 đồng, thời hạn mượn là 01 tháng từ ngày 31/10/2015 đến ngày 31/11/2015; việc mượn tiền có lập biên nhận.

+ Ngày 21/03/2016 bà H1 có cho ông Đ vay số tiền 1.000.000.000 đồng, thời hạn vay là 3 tháng từ ngày 21/03/2016 đến ngày 21/06/2016; Lãi suất là 4,5%/tháng ; việc mượn tiền có lập hợp đồng mượn tiền

+ Ngày 09/05/2019 chuyển khoản Ủy nhiệm chi tại ngân H1ng Sacombank – PGD Gò Mây, Tp. HCM số tiền 3.000.000.000 đồng vào tài khoản của ông Đ số : 3568668 ở ngân H1ng Á Châu.

Tổng cộng ông Đ đã mượn của bà H1 số tiền là 7.900.000.000 đồng - Từ khi vay mượn tiền đến nay, bà H1 đã nhiều lần yêu cầu ông Đ thanh toán nhưng ông Đ cứ né tránh, không thực hiện nên nay bà H1 khởi kiện yêu cầu ông Đ thanh toán số tiền 7.900.000.000 đồng, không yêu cầu lấy lãi, thanh toán một lần ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật.

Khi cho ông Đ vay tiền, biết là ông Đ có vợ là bà Hương nhưng chỉ cho cá nhân ông Đ mượn nên yêu cầu cá nhân ông  Nguyễn Văn Đ có trách nhiệm thanh toán số tiền trên.

Bà H1 có chồng tên Lê Ngọc T6 nhưng số tiền bà H1 cho ông Đ vay mượn là tiền riêng của cá nhân bà H1 nên bà không yêu cầu đưa ông T6 vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan.

* Ông Lê Ngọc T6 trình bày: Ông là chồng của bà Nguyễn Thu H1, đối với hợp đồng ngày 06/11/2014 ông có ghi tên và ký tên bên cho mượn tiền cùng với bà H1 nhưng thực tế số tiền này của riêng bà H1, tất cả số tiền bà H1 cho ông Đ vay mượn trên là tiền riêng của bà H1, không phải là tài sản chung của vợ chồng. Ông yêu cầu ông Đ trả số tiền trên cho bà H1, các số tiền này không liên quan gì đến ông và ông không thắc mắc hay khiếu nại gì đối với việc ông Đ trả tiền cho cá nhân bà H1. Số tiền trên không liên quan gì đến ông nên ông xin vắng mặt.

Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt. Do đó, Tòa án đưa vụ án ra xét xử theo luật định

- Về tiền gốc theo các giấy nợ :a hôm nay:

+ Đại diện nguyên đơn yêu cầu bị đơn thanh toán cho nguyên đơn số tiền theo các hợp đồng mượn tiền ngày 02/10/2014, 06/11/2014, 11/11/2014, 24/09/2015, biên nhận ngày 31/10/2015, hợp đồng vay tiền 21/03/2016, Ủy nhiệm chi ngày 09/05/2019.

Tổng cộng là 7.9000.0000.000 đồng.

+ Đại diện bị đơn trình bày: Ông  Nguyễn Văn Đ xác nhận có vay của bà Nguyễn Thu H1 số tiền 3.000.000.000 đồng theo Ủy nhiệm chi ngày 09/05/2019; vay số tiền 1.000.000.000 đồng theo hợp đồng vay tiền ngày 21/03/2016; vay số tiền 200.000.000 đồng theo biên nhận ngày 31/10/2015. Tổng số tiền vay là 4.200.000.000 đồng.

Ông  Nguyễn Văn Đ xác nhận chữ ký và chữ viết trên các hợp đồng mượn tiền ngày 02/10/2014, 06/11/2014, 11/11/2014, 24/09/2015 là của ông Đ nhưng giữa các bên chưa có việc bàn giao tiền, ông Đ không có nhận tiền nên căn cứ Điều 512 Bộ luật dân sự năm 2005 thì các hợp đồng vay tiền trên chưa được xác lập nên ông Đ không Đ ý số nợ 3.700.000.000 đồng theo các hợp đồng vay tiền này.

Đại diện nguyên đơn trình bày: Ông Đ đã nhận đủ tiền nên mới ký và ghi họ tên vào bên mượn tiền của các hợp đồng vay tiền trên, ngoài ra phía sau của tờ hợp đồng vay tiền ngày 06/11/2014 tự tay ông Đ ghi và ký tên là “Tổng cộng 3 tờ giấy mượn tiền số tiền là 2.700.000.000 đồng nên việc đại diện bị đơn cho rằng ông Đ không có nhận tiền là không đúng .

- Về tiền lãi: Đại diện nguyên đơn và đại diện bị đơn thống nhất số tiền lãi mà nguyên đơn đã nhận và bị đơn đã trả tổng cộng là 650.000.000 đồng theo các ủy nhiệm chi ngày 27/02/2019 là 100.000.000 đồng; ngày 18/04/2019 là 150.000.000 đồng; ngày 14/05/2019 là 150.000.000 đồng; ngày 21/5/2019 là 100.000.000 đồng; ngày 12/06/2019 là 150.000.000 đồng.

Đại diện nguyên đơn và đại diện bị đơn thống nhất không yêu cầu xem xét về việc đã trả và nhận tiền lãi giữa hai bên đối với các khoản vay trên. Hai bên thống nhất không yêu cầu tính lãi đối với các khoản vay trên

- Về trách nhiệm thanh toán: Đại diện nguyên đơn và bị đơn đều thống nhất việc vay tiền do cá nhân ông Đ vay và cá nhân ông Đ có trách thanh toán, không liên quan đến vợ ông Đ (bà Nguyễn Thị Hương) và không đưa bà Hương vào tham gia tố tụng với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ kiện này.

Đại diện nguyên đơn trình bày: Ông T6 có bản khai xác nhận tất cả số tiền bà H1 cho ông Đ vay mượn là tiền riêng của bà H1, không phải là tài sản chung của vợ chồng kể cả giấy nợ ngày 06/10/2014 bên cho mượn tiền có ghi tên ông T6 nhưng cũng là tiền của cá nhân bà H1 nên đề nghị ông Đ trả cho cá nhân bà H1. Đại diện bị đơn đồng ý vì bà H1 hay ông T6 cũng là một nên nay ông T6 (chồng bà H1) có bản khai thể hiện số tiền này là của bà H1, ông Đ đồng ý thanh toán số tiền trên cho cá nhân bà H1. Đại diện nguyên đơn, đại diện bị đơn thống nhất không đưa ông T6 vào tham gia tố tụng với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ kiện này

- Về thời hạn và phương thức thanh toán :

Đại diện nguyên đơn yêu cầu bị đơn thanh toán cho nguyên đơn 01 lần, ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật. Đại diện bị đơn yêu cầu thanh toán trong hạn 6 tháng vì hiện tại bị đơn khó khăn về kinh tế.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Phú tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

+ Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án của thẩm phán, Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là tuân theo đúng qui định của pháp luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên có vi phạm về thời gian đưa vụ án ra xét xử nhưng không có Quyết định gia hạn xét xử.

+ Về nội dung: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, sau khi nghe ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Phú, sau khi nghị án Hội đồng xét xử nhận định:

1.Về tố tụng: Xét đơn khởi kiện ngày 16/12/2019 của bà Nguyễn Thu H1. Hội đồng xét xử xác định đây là vụ án về “Đòi tài sản” qui định tại khoản 3, Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Do bị đơn hiện cư ngụ tại quận Tân Phú nên Toà án nhân dân quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh thụ lý giải quyết là phù hợp với   1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Đại diện nguyên đơn và bị đơn đều thống nhất việc vay tiền do cá nhân ông Đ vay và cá nhân ông Đ có trách thanh toán, không liên quan đến vợ ông Đ (bà Nguyễn Thị Hương) và không đưa bà Hương vào tham gia tố tụng. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 4 Điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 không đưa bà Hương vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Ông Lê Ngọc T6 có bản khai xác nhận tất cả số tiền bà H1 cho ông Đ vay mượn là tiền riêng của bà H1, không phải tài sản chung của vợ chồng kể cả giấy nợ ngày 06/10/2014 bên cho mượn tiền có ghi tên ông T6 nhưng cũng là tiền của cá nhân bà H1 nên đề nghị ông Đ trả cho cá nhân bà H1. Đại diện bị đơn đồng ý thanh toán số tiền trên cho cá nhân bà H1. Đại diện nguyên đơn, đại diện bị đơn thống nhất không đưa ông T6 vào tham gia tố tụng. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 4 Điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 không đưa ông T6 vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

2. Về yêu cầu của đương sự:

- Về số tiền vay giữa hai bên:

Đại diện bị đơn xác nhận ông  Nguyễn Văn Đ xác nhận có vay của bà Nguyễn Thu H1 số tiền 3.000.000.000 đồng theo Ủy nhiệm chi ngày 09/05/2019; vay số tiền 1.000.000.000 đồng theo hợp đồng vay tiền ngày 21/03/2016; vay số tiền 200.000.000 đồng theo biên nhận ngày 31/10/2015. Tổng số tiền vay là 4.200.000.000 đồng nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

Đại diện bị đơn xác nhận chữ ký và chữ viết trên các hợp đồng mượn tiền ngày 02/10/2014, 06/11/2014, 11/11/2014, 24/09/2015 là của ông Đ nhưng giữa hai bên chưa có việc bàn giao tiền, ông Đ không có nhận tiền nên các hợp đồng vay tiền trên chưa được xác lập thực hiện. Hội đồng xét xử xét thấy, việc đại diện bị đơn cho rằng ông Đ không có nhận tiền, chưa có việc bàn giao tiền nhưng không có chứng cứ chứng minh và đại diện nguyên đơn không thừa nhận. Bên cạnh đó, căn cứ vào các hợp đồng vay tiền ngày 02/10/2014, 06/11/2014, 11/11/2014, 24/09/2015 thể hiện cụ thể bên cho mượn là bà Nguyễn Thu H1, bên mượn tiền là ông  Nguyễn Văn Đ, số tiền mượn, thời hạn mượn và cam kết chung về việc không thanh toán, các hợp đồng vay tiền này ông Đ đều ký tên, ghi tên ông Đ ở bên mượn tiền và ở mặt sau trên hợp đồng ngày 6/11/2019 ông Đ đã tái xác nhận việc mượn tiền nên không có cơ sở chấp nhận yêu cầu của đại diện bị đơn. Ngược lại, căn cứ trên các hợp đồng vay tiền ngày 02/10/2014, 06/11/2014, 11/11/2014, 24/09/2015 có đủ cơ sở chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc ông Đ có vay của bà H1 số tiền 3.700.000.000 đồng.

- Về tiền lãi: Đại diện nguyên đơn và đại diện bị đơn thống nhất số tiền lãi mà nguyên đơn đã nhận và bị đơn đã trả tổng cộng là 650.000.000 đồng theo các ủy nhiệm chi ngày 27/02/2019 là 100.000.000 đồng; ngày 18/04/2019 là 150.000.000 đồng; ngày 14/05/2019 là 150.000.000 đồng; ngày 21/5/2019 là 100.000.000 đồng; ngày 12/06/2019 là 150.000.000 đồng, giữa đại diện nguyên đơn và đại diện bị đơn thống nhất không yêu cầu xem xét về việc đã trả và nhận lãi đối với các khoản vay trên, không yêu cầu tính lãi đối với các khoản vay trên nên Hội đồng xét xử không xem xét.

- Về thời hạn và phương thức thanh toán:

Hội đồng xét xử xét thấy, ông Đ vi phạm nghĩa vụ thanh toán theo sự thỏa thuận giữa hai bên, đại diện bị đơn yêu cầu thanh toán trong hạn 06 tháng, không được đại diện nguyên đơn đồng ý nên không có cơ sở chấp nhận yêu cầu của bị đơn. Đại diện nguyên đơn yêu cầu thanh toán một lần ngay khi án có hiệu lực pháp luật là có cơ sở nên được chấp nhận.

- Về trách nhiệm thanh toán:

Đại diện nguyên đơn và đại diện bị đơn thống nhất do cá nhân ông  Nguyễn Văn Đ thanh toán cho cá nhân bà Nguyễn Thu H1. Hội đồng xét xử xét thấy, việc thống nhất về trách nhiệm thanh toán của đại diện nguyên đơn và đại diện bị đơn phù hợp với các tài liệu chứng cứ và qui định pháp luật nên ghi nhận Từ những nhận định trên, buộc ông  Nguyễn Văn Đ có trách nhiệm thanh toán cho bà Nguyễn Thu H1 số tiền là 7.900.000.000 đồng theo các hợp đồng mượn tiền ngày 02/10/2014, 06/11/2014, 11/11/2014, 24/09/2015, biên nhận ngày 31/10/2015, hợp đồng vay tiền 21/03/2016, Ủy nhiệm chi ngày 09/05/2019 . Thanh toán một lần ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật

Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Căn cứ Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Ông  Nguyễn Văn Đ phải chịu án phí là 115.900.000 đồng.

Hoàn trả toàn bộ tiền tạm ứng án phí cho bà Nguyễn Thu H1

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Điều 26, Điều 39, Điều 227, Điều 228, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Căn cứ Điều 116, Điều 166, 468  Bộ luật dân sự 2015;

- Căn cứ Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thu H1.

Buộc ông Nguyễn Văn Đ có trách nhiệm thanh toán cho bà nguyễn Thu H1 số tiền 7.900.000.000.000 đồng theo các hợp đồng mượn tiền ngày 02/10/2014; ngày 06/11/2014; ngày 11/11/2014; ngày 24/09/2015; Biên nhận ngày 31/10/2015; hợp đồng vay tiền ngày 21/03/2016; Ủy nhiệm chi ngày 09/05/2019.

Thời hạn và phương thức thanh toán: Thanh toán 1 lần, ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật.

2/ Án phí dân sự sơ thẩm: ông Nguyễn Văn Đ phải chịu án phí là 115.900.000 đồng.

Hoàn trả toàn bộ tiền tạm ứng án phí 57.950.000 đồng cho bà Nguyễn Thu H1 theo biên lai thu số 0020378 ngày 02/01/2020 của Chi cục thi hành án dân sự quận Tân Phú.

Thi hành tại Cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền.

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án không thi hành thì H1ng tháng phải chịu lãi suất theo mức lãi suất do các bên thỏa thuận nhưng không được vượt quá mức lãi suất theo qui định tại khoản 1 Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015 tương ứng thời gian và số tiền chậm thi hành án; nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo qui định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015 đối với số tiền chậm thực hiện tương đương với thời gian chậm thi hành án.

3/ Quyền kháng cáo: Các đương sự có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự; người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

239
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 242/2020/DS-ST ngày 13/08/2020 về đòi tài sản

Số hiệu:242/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tân Phú - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 13/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về