Bản án 242/2018/HNGĐ-ST ngày 31/10/2018 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẦM DƠI, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 242/2018/HNGĐ-ST NGÀY 31/10/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 31 tháng 10 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đầm Dơi xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 445/2018/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 9 năm 2018 về tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 298/2018/QĐXXST–HNGĐ ngày 19 tháng 10 năm 2018, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Trần Khả D, sinh năm 1988;

Địa chỉ: Ấp C, xã Q, huyện Đ, tỉnh Cà Mau.

- Bị đơn: Chị Nguyễn Thị Bé C, sinh năm 1989;

Địa chỉ: Ấp C, xã Q, huyện Đ, tỉnh Cà Mau.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn khởi kiện ngày 04/9/2018 và biên bản hòa giải ngày 08/10/2018,nguyên đơn anh Trần Khả D trình bày:

Về hôn nhân: Anh với chị Nguyễn Thị Bé C tự nguyện kết hôn năm 2006, không có đăng ký kết hôn. Thời gian đầu chung sống hạnh phúc nhưng sau thời gian phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống dẫn đến cự cãi nhau, từ đó cuộc sống vợ chồng không còn gắn bó thương yêu nhau. Nay anh D nhận thấy giữa anh vớichị Bé C không thể tiếp tục chung sống với nhau được nữa nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị Bé C.

Về con chung: Anh D xác định vợ chồng có 01 người con chung tên Trần Nhứt D sinh ngày 13/7/2006, hiện do anh đang nuôi dưỡng, khi ly hôn anh yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng cháu Nhứt D, không đặt ra việc cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản: Anh D xác định vợ chồng tự thỏa thuận nên không đặt ra yêu cầuTòa án giải quyết.

Về nợ: Anh D xác định trong thời gian chung sống vợ chồng không nợ ai vàkhông ai nợ lại vợ chồng nên không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

- Tại biên bản hòa giải ngày 08/10/2018, bị đơn chị Nguyễn Thị Bé C trìnhbày:

Về hôn nhân: Qua phần trình bày của anh D về ngày tháng năm chung sống,không đăng ký kết hôn và nguyên nhân mâu thuẫn dẫn đến ly hôn là đúng, nay chị đồng ý ly hôn theo yêu cầu của anh D.

Về con chung: Chị thống nhất theo trình bày của anh D, khi ly hôn chị đồng ý giao cháu Nhứt D cho anh D nuôi dưỡng, việc cấp dưỡng không đặt ra.

Về tài sản: Chị Châu xác định vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ: Chị Châu xác định trong thời gian chung sống vợ chồng không nợ ai và không ai nợ lại vợ chồng nên không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 [1] Về tố tụng: Anh Trần Khả D và chị Nguyễn Thị Bé C có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án vắng mặt anh, chị. Căn cứ vào khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt anh D và chị Bé C.

 [2] Về hôn nhân: Anh Trần Khả D và chị Nguyễn Thị Bé C tự nguyện chung sống với nhau năm 2006, anh chị xác lập mối quan hệ hôn nhân trên tinh thần tự nguyện nhưng không có đăng ký kết hôn. Tại phiên hòa giải anh D vẫn giữ yêu cầu được ly hôn với chị Bé C và chị Bé C đồng ý ly hôn với anh D. Tại khoản 1 Điều 14Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định: “Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng”. Căn cứ vào khoản 2 Điều 53 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử tuyên bố không công nhận anh Trần Khả D và chị Nguyễn Thị Bé C là vợ chồng.

 [3] Về con: Anh D và chị Bé C có 01 người con chung tên Trần Nhứt D sinh ngày 13/7/2006, hiện đang sống cùng với anh D, khi ly hôn anh D và chị Bé C thỏa thuận giao cháu Nhứt D cho anh D nuôi dưỡng. Hội đồng xét xử xét thấy việc thỏathuận nuôi con của anh D và chị Bé C là hoàn toàn tự nguyện và cũng phù hợp với nguyện vọng của cháu Nhứt D. Do đó, căn cứ khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 giao cháu Nhứt D cho anh D nuôi dưỡng là phù hợp; đối với việc cấp dưỡng cho con, anh D và chị Bé C không đặt ra, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

 [4] Về tài sản chung: Anh D và chị Bé C xác định vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

 [5] Về nợ: Anh D và chị Bé C xác định anh chị không có nợ ai và không ai nợ lại anh chị, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

 [6] Án phí dân sự sơ thẩm anh D phải chịu 300.000 đồng. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Căn cứ vào khoản 1 Điều 14, khoản 2 Điều 53; khoản 2 Điều 81 và Điều 82 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giãm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Không công nhận anh Trần Khả D và chị Nguyễn Thị Bé C làvợ chồng.

2. Về con chung: Giao cháu Trần Nhứt D sinh ngày 13/7/2006 cho anh Trần Khả D trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục; việc cấp dưỡng cho con không đặt ra. Chị Bé C có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Anh Trần Khả D phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng), nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp 300.000 đồng theo biên lai số 0010341 ngày 04/9/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đầm Dơi; anh D đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Anh D, chị Bé C có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

263
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 242/2018/HNGĐ-ST ngày 31/10/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:242/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đầm Dơi - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về