Bản án 242/2018/HNGĐ-ST ngày 11/09/2018 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TUYÊN QUANG, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 242/2018/HNGĐ-ST NGÀY 11/09/2018 VỀ LY HÔN

Ngày 11 tháng 9 năm 2018 tại Trụ sở Toà án nhân dân thành phố Tuyên Quang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 100/2018/HNGĐ-ST, ngày 27/4/2018 về việc Tranh chấp hôn nhân và gia đình, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 25/2018/QĐST-HNGĐ, ngày 23/8/2018 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Chị Ma Thị H, sinh năm 1991;

Địa chỉ: Xóm 5, xã T, huyện S, tỉnh Tuyên Quang

* Bị đơn: Anh Lê Đức L, sinh năm 1983;

Địa chỉ: Đội A, xã A, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang;

Chị Ma Thị H và anh Lê Đức L đều có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, bản tự khai, nguyên đơn chị Ma Thị H trình bày:

Chị và anh Lê Đức L đăng ký kết hôn ngày 13/9/2012 tại UBND xã T, huyện S, tỉnh Tuyên Quang trên cơ sở tự nguyện, không bị ép buộc và được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo đúng phong tục, tập quán ở địa phương. Sau khi kết hôn, chị H và anh Lchung sống cùng gia đình nhà anh L tại đội A, xã A, thành phố T. Thời gian đầu chung sống, vợ chồng hoà thuận hạnh phúc. Từ năm 2013 vợ chồng anh chị phát sinh mâu thuẫn do tính tình không hợp và luôn bất đồng quan điểm. Từ năm 2014 đến nay, vợ chồng chị đã sống ly thân, mỗi người ở một nơi (chị H về gia đình mẹ đẻ ở xóm 5, xã T, huyện S, tỉnh Tuyên Quang; còn anh L ở với bố mẹ đẻ tại đội A, xã A, thành phố T). Đến nay chị H xác định tình cảm vợ chồng không còn, không thể hàn gắn và tiếp tục cùng chung sống với nhau được nữa nên chị làm đơn xin ly hôn anh Lê Đức L.

Về con chung: Quá trình chung sống chị và anh L có 01 con chung tên là: Lê Kh, sinh ngày 05/3/2008. Vợ chồng ly hôn chị đề nghị được nuôi cháu Kh vì hiện nay cháu Kh đang ở cùng chị và học tập ổn định. Chị không yêu cầu giải quyết về việc cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Chị và anh L không có tài sản chung nên không đề nghị Tòa án giải quyết.

Về vay nợ: Chị và anh L không vay ai hay cho ai vay nợ nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai bị đơn là anh Lê Đức L trình bày:

Anh và chị Ma Thị H là vợ chồng, có đăng ký kết hôn vào ngày 13/9/2012 tại UBND xã T, huyện S, tỉnh Tuyên Quang. Sau khi kết hôn, anh chị về chung sống cùng gia đình nhà anh tại đội A, xã A, thành phố Tuyên Quang. Sau đó vợ chồng có một thời gian về sống cùng gia đình nhà chị H tại xóm 5, xã T, huyện S, tỉnh Tuyên Quang rồi lại chuyển về thành phố T. Trong thời gian chung sống vợ chồng có mâu thuẫn cãi nhau, đánh, chửi nhau do tính tình không hợp và do chuyện làm ăn. Từ tháng 7 năm 2015 vợ chồng anh chị đã sống ly thân, mỗi người một nơi. Nay chị Ma Thị H làm đơn xin ly hôn anh, anh không đồng ý vì anh vẫn còn tình cảm với chị H và vẫn hàn gắn được gia đình. Tại thời điểm này, anh L đang bị bắt tạm giam nên anh đề nghị Toà án không tiến hành hoà giải và giải quyết vắng mặt anh. Anh xác nhận, khi anh chưa bị bắt, anh đã nhận được các văn bản của Toà án gửi đến nhưng anh đi làm ăn xa nên không đến Toà án giải quyết vụ án được.

Về con chung: Anh Lê Đức L xác nhận vợ chồng có 01 con chung tên là Lê Kh, sinh ngày 05/3/2008, hiện nay cháu Kh đang ở cùng chị H. Nếu vợ chồng ly hôn anh đề nghị Toà án giải quyết cho chị H nuôi cháu Kh và anh không phải cấp dưỡng nuôi con chung vì hiện nay anh đang bị tạm giam nên không có khả năng nuôi con và cấp dưỡng.

Về tài sản chung và vay nợ chung: Anh L xác nhận vợ chồng không có tài sản chung và vay nợ chung nên không đề nghị Tòa án giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Toà án đã gửi thông báo về việc vụ thụ lý vụ án, thông báo hoà giải và đối chiếu chứng cứ cho anh Lê Đức L nhưng anh L đều vắng mặt không có lý do và cũng không nộp cho Tòa án văn bản ý kiến của mình đối với yêu cầu của người khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ kèm theo. Do vậy Tòa án không mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải được.

Ngày 20/8/2018, chị Ma Thị H bổ sung ý kiến về việc anh Lê Đức L đã bị bắt tạm giam tại Công an huyện S, tỉnh Tuyên Quang. Toà án đã tiến hành tống đạt các văn bản tố tụng cho anh Lê Đức L và anh L cũng đã viết bản tự khai, anh L đề nghị Toà án giải quyết vắng mặt anh tại các phiên họp, hoà giải và xét xử vì anh đang bị tạm giam.

Tòa án cũng đã tiến hành thu thập chứng cứ tại chính quyền địa phương để ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử.

Kết quả thu thập chứng cứ thể hiện: Anh Lê Đức L và chị Ma Thị H có đăng ký kết hôn vào ngày 13/9/2012 tại UBND xã T, huyện S, tỉnh Tuyên Quang. Sau khi kết hôn, anh chị về chung sống tại đội A, xã A, thành phố T. Sau đó vợ chồng có về sống tại xóm 5, xã T, huyện S, tỉnh Tuyên Quang một thời gian (không khai báo tạm trú). Sau đó lại chuyển về thành phố T thuê nhà sống. Trong thời gian chung sống, chị H có nói với hai bên gia đình (bố mẹ anh L và mẹ chị H) về việc anh L đánh đập chị và vợ chồng sẽ ly hôn. Hai bên gia đình đã khuyên bảo nhưng vợ chồng anh chị vẫn sống ly thân khoảng 3 năm nay. Đến nay chị H có đơn xin ly hôn anh L, đề nghị Toà án giải quyết theo quy định của pháp luật. Về con chung: Anh chị có 01 con chung tên là Lê Kh, sinh ngày 05/3/2008, hiện nay cháu Kh đang ở cùng chị H. Anh chị không có tài sản chung và vay nợ chung.

Tại phiên tòa, chị Ma Thị H và anh Lê Đức L đều có đơn xin xét xử vắng mặt. Chị H giữ nguyên yêu cầu khởi kiện như đơn khởi kiện và bản tự khai; anh L cũng giữ nguyên ý kiến như đã trình bày tại bản tự khai, không ai có ý kiến gì bổ sung.

Đại diện viện kiểm sát phát biểu quan điểm ý kiến: Từ khi thụ lý đơn và trong quá trình giải quyết vụ án đã thực hiện đảm bảo đúng theo quy định tại Điều 48 Bộ luật tố tụng dân sự; Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử: Hội đồng xét xử độc lập, chỉ tuân theo pháp luật, trình tự tại phiên tòa thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; Thư ký phiên tòa thực hiện đúng quy định của pháp luật; Việc chấp hành pháp luật của đương sự: Nguyên đơn đã thực hiện đúng quy định tại Điều 70 và Điều 71 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn không thực hiện đúng quy định tại Điều 70 và Điều 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về việc giải quyết vụ án: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Ma Thị H về việc xin ly hôn anh Lê Đức L.

Về con chung: Giao con chung Lê Kh, sinh ngày 05/3/2008 cho chị Ma Thị H trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Anh Lê Đức L không phải cấp dưỡng nuôi con chung (do chị H không yêu cầu). Anh L có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

Về tài sản chung, vay nợ chung: Chị Ma Thị H và anh Lê Đức L không có tài sản chung; không có vay nợ chung.

Về án phí: Chị Ma Thị H phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TOÀ ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho nguyên đơn và bị đơn. Ngày 27/4/2018, Toà án thụ lý vụ án và gửi thông báo thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cho anh Lê Đức L. Anh L đã nhận được các văn bản của Toà án nhưng do anh đi làm ăn xa nên không đến Toà án tham gia tố tụng được.

Tại phiên toà, các đương sự đều có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, căn cứ Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự. Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Ma Thị H và anh Lê Đức L kết hôn trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, như vậy quan hệ hôn nhân giữa chị H và anh L là hợp pháp. Trong quá trình chung sống, cuộc sống vợ chồng chỉ hòa thuận được thời gian đầu mới kết hôn, sau đó phát sinh mâu thuẫn do tính tình vợ chồng không hợp và dẫn đến đánh, chửi nhau. Mâu thuẫn vợ chồng đã được hai gia đình hoà giải nhưng vợ chồng anh chị vẫn sống ly thân từ năm 2015 đến nay, không ai còn quan tâm đến ai nữa. Hiện nay anh L lại bị bắt tạm giam, chị H xác định tình cảm vợ chồng không còn và không thể chung sống cùng nhau được nữa. Xét thấy, mâu thuẫn vợ chồng đã sâu sắc, mục đích của hôn nhân nhằm xác lập quan hệ vợ chồng chung sống hòa thuận, hạnh phúc, bền vững đã không thể đạt được, vì vậy HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Ma Thị H xin ly hôn anh Lê Đức L.

[3] Về con chung: Chị Ma Thị H và anh Lê Đức L có 01 con chung là Lê Kh, sinh ngày 05/3/2008. Hiện nay cháu Kh đang ở với chị H. Xét yêu cầu của chị H xin trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cháu Kh vì hiện nay cháu Kh đang sống và học tập ổn định với chị H, mặt khác anh L vi phạm pháp luật và đang bị tạm giam nên không có điều kiện để nuôi con, yêu cầu này là phù hợp với quy định của Luật Hôn nhân và gia đình nên cần chấp nhận. Chị H không yêu cầu anh Lanh phải cấp dưỡng nuôi con chung nên HĐXX không xem xét giải quyết.

[4] Về tài sản chung và vay nợ chung: Chị Ma Thị H và anh Lê Đức L đều xác định vợ chồng không có tài sản chung, không có vay nợ chung nên không yêu cầu Toà án giải quyết, vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí và quyền kháng cáo:

Chị Ma Thị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Anh Lê Đức L không phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.

Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: - Các Điều 28 ; 147; 227; 228; 266; 267; 271 và 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Điều 51; 56; 81; 82; 83 của Luật Hôn nhân và gia đình.

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Ma Thị H về việc xin ly hôn.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Ma Thị H được ly hôn anh Lê Đức L.

2. Về con chung: Giao con chung là Lê Kh, sinh ngày 05/3/2008 cho chị Ma Thị H trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Anh Lê Đức L không phải cấp dưỡng nuôi con chung và có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

3. Án phí: Chị Ma Thị H phải chịu 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí sơ thẩm ly hôn, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp là 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0005175 ngày 27/4/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang. Chị H đã nộp đủ án phí. Anh Lê Đức L không phải chịu án phí.

Chị Ma Thị H và anh Lê Đức L có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

314
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 242/2018/HNGĐ-ST ngày 11/09/2018 về ly hôn

Số hiệu:242/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tuyên Quang - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về