Bản án 24/2021/HNGĐ-ST ngày 24/06/2021 về xin ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 24/2021/HNGĐ-ST NGÀY 24/06/2021 VỀ XIN LY HÔN

Ngày 21 tháng 5 năm 2021, tại hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện VN, tỉnh Thái Nguyên mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 09/2021/TLST- HNGĐ ngày 22 tháng 01 năm 2021 về việc xin ly hôn theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 13/2021/QĐXX-ST ngày 07 tháng 4 năm 2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Trương Thị Th, sinh năm 1993.

Nơi ở hiện nay: Xóm LC, xã QC, huyện CM, tỉnh Bắc Kạn.

Hộ khẩu thường trú: Xóm NS II, xã TS, huyện VN, tỉnh Thái Nguyên. Dân tộc: Kinh; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hóa: 9/12.

(có đơn đề nghị xét xử vắng mặt)

Bị đơn: Anh Dương Văn L, sinh năm 1993.

Nơi ở hiện nay: Công ty khai thác khoáng sản Thăng Long. Địa chỉ: Xóm XS, xã TS, huyện VN, tỉnh Thái Nguyên.

Hộ khẩu thường trú: Xóm NS II, xã TS, huyện VN, tỉnh Thái Nguyên. Dân tộc: Tày; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hóa: 10/12.

(vắng mặt, đã triệu tập hợp lệ)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện của chị Th và tại bản tự khai nguyên đơn chị Th và anh L đều thừa nhận kết hôn năm 2012 tại xã TS, VN, Thái Nguyên, trước khi kết hôn được tìm hiểu, đăng ký kết hôn tự nguyện, không bị ép buộc. Quá trình chung sống có một con chung Dương Trung K, sinh này 29/9/2012. Sau khi cưới vợ chồng anh chị sống chung cùng bố mẹ đẻ anh L. Quá trình chung sống tài sản chung và nợ chung không có.

Về lý do xin ly hôn chị Th cho rằng: Trong quá trình chung sống ban đầu vợ chồng sống hạnh phúc không có mâu thuẫn gì. Sau đó đến năm 2016 vợ chồng thường xuyên sảy ra xích mích, cãi vã anh L đã đánh chị nhiều lần. Từ đó vợ chồng không còn thương yêu tôn trọng nhau nữa, cuộc sống ngày càng căng thẳng gây ảnh hưởng đến con cái. Do không sống được cuộc sống như vậy nên chị đã bỏ về ngoại sống và ly thân từ năm 2016 đến nay. Nay chị xác định tình cảm không còn nên chị làm đơn đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh L. Về con chung chị nhất trí theo nguyện vọng của con được sống với anh Lý, chị sẽ đóng góp cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật. Tài sản chung nợ chung không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh L cho rằng: Trong quá trình chung sống ban đầu vợ chồng hạnh phúc không có mâu thuẫn gì. Năm 2016 vợ chồng sảy ra mâu thuẫn do anh đi bộ đội chị Th ở nhà có đi ngoại tình, anh đã phát hiện ra chị Th nhắn tin trên điện thoại cho người đàn ông khác cùng xã, chị Th cũng công nhận sự việc sảy ra và đã xin anh bỏ qua. Sau đó ngày 27/7/2016 anh ra quân về địa phương, vợ chồng sống với nhau thường xuyên sảy ra mâu thuẫn do quan hệ của chị Th không lành mạnh gây ức chế cho nhau. Tháng 9/2016 chị Th bỏ nhà đi và ly thân từ đó đến nay, để lại con cho anh nuôi một mình thỉnh thoảng mới về thăm con. Bản thân anh cũng gọi điện thoại khuyên chị Th về nhà rất nhiều lần và cũng sang nhà ông bà ngoại đón nhưng chị Th không về. Từ năm 2018 đến nay chị Th không về thăm con lần nào nữa, cũng không đưa cho anh được đồng nào giúp anh nuôi con. Nay chị Th xin ly hôn anh L không nhất trí ly hôn đề nghị Tòa án hòa giải để vợ chồng đoàn tụ nuôi dạy con cái trưởng thành. Nếu chị Th cương quyết ly hôn anh về con chung anh đề nghị được nuôi con, yêu cầu chị Th đóng góp cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật. Về tài sản chung, nợ chung không có không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tham gia phiên toà: Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên toà phát biểu ý kiến:

Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng: Toà án thụ lý vụ án và tiến hành các thủ tục tố tụng trong quá trình thụ lý giải quyết vụ án cũng như tại phiên toà phù hợp với các quy định của pháp luật, nguyên đơn, bị đơn thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình.

Việc giải quyết vụ án:

Về quan hệ vợ chồng: Xét thấy chị Th và anh L kết hôn năm 2012 đăng ký kết hôn tại UBND xã TS, VN, Thái Nguyên. Tuy anh L không muốn ly hôn, nhưng chị Th vẫn cương quyết không về chung sống với anh L nữa. Nhận thấy hôn nhân đã lâm vào tình trạng trầm trọng, không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được do quá trình chung sống có nhiều mâu thuẫn sảy ra không thể giải quyết, đã ly thân từ tháng 9/2016 đến nay, không quan tâm đến cuộc sống của nhau nữa xét chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Th cho chị Th được ly hôn anh L.

Về con chung: Qua nghiên cứu hồ sơ vụ án thấy cháu K là con của chị Th và anh L có nguyện vọng xin được ở cùng anh L, chị Th cũng nhất trí với nguyện vọng của con, xét thấy cần tôn trọng nguyện vọng của cháu K. Tại phiên tòa chị Th và anh Lđều vắng mặt tuy nhiên tại bản tự khai và tại phiên hòa giải anh chị đều nhất trí theo nguyện vọng của cháu K. Xét cần giao cho anh L trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Dương Trung K, sinh này 29/9/2012 đến khi đủ 18 tuổi.

Về cấp dưỡng nuôi con: Trong các bản khai có trong hồ sơ vụ án chị Th và anh L đều đề nghị Tòa án giải quyết theo pháp luật. Tại đơn đề nghị xét xử vắng mặt được công bố tại phiên tòa chị Th đề nghị đóng góp cấp dưỡng nuôi con cùng anh L mỗi tháng 1.000.000 đồng, mức đề nghị của chị Th là phù hợp với quy định của pháp luật nên buộc chị Th đóng góp nuôi con cùng anh L mỗi tháng 1.000.000 đồng.

Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không có tài sản chung và nợ chung nên không xem xét giải quyết.

Về án phí chị Thảo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, thẩm tra các chứng cứ tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Đây là vụ án xin ly hôn thuộc thẩm quyền giải quyết vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 BLTTDS. Tại thời điểm Tòa án thụ lý vụ án bị đơn là anh Dương Văn L cư trú tại xóm NS II, xã TS, VN, Thái Nguyên. Vì vậy vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện VN, tỉnh Thái Nguyên theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng Dân sự.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Lời khai của chị Th và anh L về tình trạng hôn nhân là có căn cứ, phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án cũng như tại phiên tòa. Xét thấy cuc hôn nhân giữa chị Th và anh L là cuộc hôn nhân hoàn toàn tự nguyện, hợp pháp. Bởi lẽ trước khi kết hôn hai bên được tìm hiểu đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã TS, VN, Thái Nguyên, sau khi kết hôn vợ chồng chung sống không có mâu thuẫn gì trầm trọng. Qúa trình chung sống anh chị có 01 con chung, từ năm 2016 trở lại đây cuộc sống vợ chồng không hòa thuận, không hạnh phúc, thường xuyên sảy ra mâu thuẫn, không giải quyết được nên chị Th đã về nhà ngoại sinh sống. Từ đó tình cảm vợ chồng rạn nứt, mâu thuẫn vợ chồng sảy ra trầm trọng, không còn tình cảm, không còn quan tâm đến đời sống của nhau nữa vợ chồng sống ly thân từ tháng 9/2016 đến nay. Quá trình giải quyết vụ án anh L không nhất trí ly hôn đề nghị Tòa án hòa giải để vợ chồng đoàn tụ. Tại phiên tòa hôm nay chị Th và anh L đều vắng mặt, tại các bản khai, biên bản hòa giải và tại đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt chị Th vẫn đề nghị được ly hôn anh L, HĐXX nhận thấy hôn nhân giữa chị Th và anh L đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được xét cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Th.

[3]. Về con chung: Chị Th và anh L có 01 con chung là Dương Trung K, sinh này 29/9/2012. Quá trình điều tra, giải quyết vụ án chị Th và anh Lkhai hiện con đang sống cùng anh L, cháu Kcó đơn đề nghị Tòa án giải quyết cho cháu ở với anh L, chị Th tôn trọng nguyện vọng của con ở với ai người đó sẽ có trách nhiệm nuôi con. Tại phiên tòa chị Th và anh L đều vắng mặt tuy nhiên tại bản tự khai và tại phiên hòa giải anh chị đều nhất trí theo nguyện vọng của cháu K. Xét cần giao cho anh L trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Dương Trung K, sinh này 29/9/2012 đến khi đủ 18 tuổi. Chị Th có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Quá trình điều tra giải quyết vụ án anh L đề nghị nếu ly hôn chị Th đóng góp nuôi con chung cùng anh theo quy định của pháp luật chị Th nhất trí với đề nghị của anh L. Tại đơn đề nghị xét xử vắng mặt được công bố tại phiên tòa hôm nay chị Th đề nghị đóng góp cấp dưỡng nuôi con cùng anh L mỗi tháng 1.000.000 đồng, mức đề nghị của chị Th là phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận, buộc chị Th đóng góp nuôi con cùng anh L mỗi tháng 1.000.000 đồng đến khi cháu K đủ 18 tuổi.

[4]. Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không có tài sản chung và nợ chung nên không xem xét giải quyết.

[5]. Về án phí: Buộc chị Th phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm và án phí cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

[7]. Xét ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân huyện VN, tỉnh Thái Nguyên về việc giải quyết vụ án là phù hợp nên chấp nhận.

Bởi lẽ trên 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng vào các Điều 28, 35, 39, 147, 235, 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 9, 51, 54, 56, 57, 58, 69, 71, 72, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án;

Tuyên xử:

1- Về quan hệ vợ chồng: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trương Thị Th cho chị Th được ly hôn anh Dương Văn L.

2- Về con chung: Giao cho anh Dương Văn L trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung là Dương Trung K, sinh ngày 29/9/2012. Sau khi ly hôn chị Th có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3- Về cấp dưỡng nuôi con: Buộc chị Trương Thị Th đóng góp cấp dưỡng 1.000.000 đồng/1 tháng nuôi cháu Dương Trung K, sinh này 29/9/2012. Thời gian cấp dưỡng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (24/6/2021) cho đến khi cháu K đủ 18 tuổi hoặc có sự kiện khác.

4- Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không có tài sản chung và nợ chung, HĐXX không xem xét giải quyết.

5- Về án phí:

- Buộc chị Trương Thị Th phải chịu 300.000đ án phí sơ thẩm ly hôn và 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con, được trừ vào số chị Th đã nộp 300.000đ tiền tạm ứng án phí tại Chi cục thi hành án dân sự huyện VN theo biên lai số 0007841 ngày 22/01/2021. Chị Th phải nộp thêm 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con vào ngân sách Nhà nước.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 và Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

(Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự).

Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại UBND xã.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

207
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 24/2021/HNGĐ-ST ngày 24/06/2021 về xin ly hôn

Số hiệu:24/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Võ Nhai - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về