Bản án 24/2021/HNGĐ-ST ngày 19/05/2021 về ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHIÊM HOÁ, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 24/2021/HNGĐ-ST NGÀY 19/05/2021 VỀ LY HÔN

Ngày 19 tháng 5 năm 2021 tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Chiêm Hoá, tỉnh Tuyên Quang xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 34/2021/TLST- HNGĐ ngày 08 tháng 3 năm 2021, về việc: Ly hôn, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 22/2021/QĐXXST – DS ngày 16 tháng 4 năm 2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 19/2021/QĐST-HNGĐ ngày 04 tháng 5 năm 2021, giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị T, sinh năm 1995; địa chỉ: Thôn LQ, xã TP, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên (vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt).

* Bị đơn: Anh Hà Văn T, sinh năm 1991; địa chỉ: Thôn BB, xã TP, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang (vắng mặt, đã được triệu tập hợp lệ lần 02).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 08/3/2021 nội dung bản tự khai, biên bản ghi lời khai, nguyên đơn chị Hoàng Thị T trình bày:

- Về hôn nhân: Chị Hoàng Thị T và anh Hà Văn T qua tự nguyện, tự do tìm hiểu đã kết hôn năm 2020, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã TP, huyện Chiêm Hóa theo Giấy chứng nhận kết hôn số 15 ngày 04/5/2020. Chị T và anh T được gia đình tổ chức cưới hỏi theo đúng phong tục tập quán tại địa phương, sau khi kết hôn vợ chồng chung sống cùng bố mẹ đẻ của anh T tại thôn BB, xã TP, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang được một thời gian, đến tháng 7 năm 2020 thì giữa chị T và anh T đã phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do tính cách không hòa hợp nên thường xuyên xảy ra cãi vã và chị T anh T đã sống ly thân từ tháng 02 năm 2021 cho đến nay. Chị Hoàng Thị T xác định tình cảm vợ chồng giữa chị và anh T thực sự đã hết, yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với anh Hà Văn T.

- Về con chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi Tòa án thụ lý vụ án, mở phiên họp việc kiểm tra tiếp cận công khai chứng cứ, phiên họp hòa giải lần 01 và lần 02 cho đến tại phiên tòa, bị đơn anh Hà Văn T đều vắng mặt không có lý do và không có quan điểm, ý kiến gửi đến Tòa án (mặc dù đã được tống đạt hợp lệ văn bản tố tụng). Tại phiên tòa, nguyên đơn chị Hoàng Thị T vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt, chị T giữ nguyên ý kiến, quan điểm như đã trình bày trong quá trình giải quyết tại Tòa án và không thay đổi, bổ sung gì.

Tòa án đã tiến hành xác minh đối với ông Hà Phúc Th (bố đẻ của anh Hà Văn T) và Công an xã TP, xác định anh Hà Văn T có hộ khẩu thường trú tại thôn BB, xã TP, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang, tuy nhiên thực tế hiện nay anh T đã đi làm ăn xa, không có mặt tại gia đình và địa phương, anh T làm công việc gì, tạm trú ở đâu và khi nào trở về gia đình, địa phương thì không rõ (lần gần nhất anh T có mặt tại gia đình là vào tết âm lịch năm 2021). Ông Th có nhận được văn bản của Tòa án nhân dân huyện Chiêm Hóa và cam kết thông báo cho anh Hà Văn T biết về việc chị Hoàng Thị T có đơn xin ly hôn.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chiêm Hoá phát biểu quan điểm tại phiên tòa: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử đảm bảo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đối với đương sự: Nguyên đơn thực hiện đúng quy định, bị đơn không thực hiện về quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, 72 của Bộ luật tố tụng dân sự; Về nội dung vụ án: Căn cứ các Điều 51, 53, 56, 57 của Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28; Điều 143, 144, 147 các Điều 227, 228, 238, 271, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Về hôn nhân: Chấp nhận đơn khởi kiện của chị Hoàng Thị T, cho chị Hoàng Thị T được ly hôn anh Hà Văn T; Về con chung, tài sản chung và nợ chung: Không có, không đề cập xem xét. Về án phí: Chị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm ly hôn theo quy định; anh T không phải chịu án phí. Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật. Về khắc phục kiến nghị vi phạm trong tố tụng: Không.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Chị Hoàng Thị T khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Chiêm Hóa giải quyết việc ly hôn đối với anh Hà Văn T; Anh Hà Văn T có hộ khẩu thường trú tại thôn BB, xã TP, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang. Căn cứ theo khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì đây là tranh chấp Hôn nhân và gia đình về việc “Ly hôn” và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Chiêm Hóa.

Theo cung cấp của Công an xã TP, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang thì anh Hà Văn T có hộ khẩu thường trú tại thôn BB, xã TP, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang. Anh T đi làm ăn xa nhưng không thông báo địa chỉ mới nên hiện tại không rõ anh T đang ở đâu, làm gì. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành triệu tập hợp lệ đối với anh T đến Tòa án để làm việc nhưng anh T vắng mặt không có lý do, anh T đã được thông báo nhưng vẫn không về, đây được xem là trường hợp người bị kiện cố tình che giấu địa chỉ, trốn tránh nghĩa vụ nên Tòa án vẫn giải quyết vụ án theo thủ tục chung.

Tại phiên tòa, nguyên đơn chị Hoàng Thị T vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn anh Hà Văn T vắng mặt không có lý do (đã được Tòa án triệu tập, tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng), Hội đồng xét xử căn cứ vào các Điều 227, 228, 238 của Bộ luật tố tụng dân sự, quyết định xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn theo đúng quy định của pháp luật.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Hoàng Thị T và anh Hà Văn T là hợp pháp, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã TP, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang. Sau khi kết hôn chị T và anh T chung sống tại thôn BB, xã TP, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang khoảng 01 tháng thì cùng nhau đi làm công nhân tại tỉnh Bắc Ninh, trong quá trình chung sống vợ chồng hạnh phúc được khoảng thời gian ngắn đến tháng 7 năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng không cùng quan điểm sống, xảy ra nhiều cãi vã, vợ chồng không có sự quan tâm, chia sẻ nên đã ly thân từ đầu năm 2021 cho đến nay, chị T xác định tình cảm vợ chồng thực sự đã hết và mâu thuẫn đã trầm trọng, yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn đối với anh Hà Văn T.

Qua điều tra xác minh xác định thực tế mâu thuẫn vợ chồng giữa chị T và anh T đã rất trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được; thể hiện tại các biên bản xác minh ngày 15/4/2021 (BL 41, 42) thấy rằng chị T và anh T đã sống ly thân từ đầu năm 2021 cho đến nay và kể từ khi ly thân, giữa anh chị không còn quan tâm, yêu thương, chăm sóc nhau nữa, do vậy giữa anh chị không thể tồn tại một gia đình hạnh phúc, tiến bộ. Hội đồng xét xử căn cứ các Điều 51, 53, 56, 57 của Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Hoàng Thị T, cho chị T được ly hôn anh Hà Văn T.

[2.2] Về con chung: Không có, Hội đồng xét xử không xem xét.

[2.3] Về tài sản chung: Không có, Hội đồng xét xử không xem xét.

[2.4] Về nợ chung: Không có, Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về án phí: Căn cứ các Điều 143, 144, 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Chị Hoàng Thị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm ly hôn theo quy định; anh Hà Văn T không phải chịu án phí.

[4] Về quyền kháng cáo: Căn cứ các Điều 271, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự,các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 39, Điều 143, 144, 147; các Điều 227, 228, 238, 271, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Các Điều 51, 53, 56, 57 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử :

1. Về Hôn nhân: Chấp nhận đơn khởi kiện xin ly hôn của chị Hoàng Thị T, cho chị Hoàng Thị T được ly hôn anh Hà Văn T.

2. Về án phí: Chị Hoàng Thị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm ly hôn là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng). Chị T đã nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chiêm Hóa theo biên lai số 0004792 ngày 08/3/2021 nay được chuyển thành án phí dân sự sơ thẩm ly hôn (chị T đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm ly hôn).

3. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án, hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

275
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 24/2021/HNGĐ-ST ngày 19/05/2021 về ly hôn

Số hiệu:24/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chiêm Hóa - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về