Bản án 24/2021/HNGĐ-ST ngày 11/06/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGHI LỘC, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 24/2021/HNGĐ-ST NGÀY 11/06/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 11 tháng 6 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 30/2021/TLST- HNGĐ ngày 10 tháng 3 năm 2021 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 20/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 29 tháng 4 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 07/2021/QĐST-HNGĐ ngày 17 tháng 5 năm 2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lô Thị Giáng M, sinh năm 1998; nơi cư trú: xóm S, xã X, huyện N, tỉnh N. Vắng mặt.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1989; nơi cư trú: xóm S, xã X, huyện N, tỉnh N. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 01 tháng 3 năm 2021, quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn là chị Lô Thị Giáng M trình bày: Chị và anh Nguyễn Văn H lấy nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Nghi Xuân, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An ngày 10 tháng 02 năm 2017. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống với nhau hạnh phúc cho đến năm 2019 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do hai bên bất đồng về quan điểm, sống không hòa hợp, vợ chồng thiếu sự quan tâm chia sẻ lẫn nhau dẫn đến thường xuyên xảy ra cãi vã, xung đột, cuộc sống hôn nhân không còn hạnh phúc nữa. Quá trình vợ chồng xảy ra mâu thuẫn mặc dù đã được hai bên gia đình nội ngoại nhiều lần khuyên nhủ, hòa giải nhưng không được. Chị và anh H hiện nay đã sống ly thân, tình cảm vợ chồng không còn nữa nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với anh H.

Chị Lô Thị Giáng Mvà anh Nguyễn Văn H có 01 con chung là cháu Nguyễn Hà Phương A, sinh ngày 10 tháng 12 năm 2016. Hiện nay cháu Anh đang sống cùng với anh H và ông bà nội tại xóm Xuân Sơn, xã Nghi Xuân, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Nếu ly hôn, nguyện vọng của chị là giao con cho anh H nuôi và chị đề nghị Tòa án không giải quyết vấn đề cấp dưỡng nuôi con.

Chị Lô Thị Giáng M không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung và nợ chung.

Trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn là anh Nguyễn Văn H trình bày:

Anh Nguyễn Văn H thừa nhận thời gian, thủ tục kết hôn, quá trình chung sống và thời gian vợ chồng phát sinh mâu thuẫn đúng như chị Lô Thị Giáng M trình bày. Tuy nhiên, theo anh H nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn là do kinh tế gia đình khó khăn, chị M lại ít nói nên không có sự chia sẻ, thấu hiểu lẫn nhau; thời gian đầu khi mới lấy nhau, chị M có quan tâm, lo lắng cho chồng con nhưng sau này ngày càng lạnh nhạt, thờ ơ; trong cuộc sống giữa vợ chồng cũng phát sinh những mâu thuẫn cãi vã lẫn nhau, bản thân anh nhiều lần nhường nhịn để vợ chồng có thể tiếp tục chung sống với nhau nhưng chị M không chịu. Nay chị M yêu cầu ly hôn thì anh H không đồng ý vì anh vẫn còn tình cảm với chị M nên anh muốn vợ chồng quay về đoàn tụ.

Anh Nguyễn Văn H thừa nhận vợ chồng có 01 con chung đúng như chị Lô Thị Giáng M trình bày. Nếu ly hôn anh có nguyện vọng được nuôi con và không yêu cầu Tòa án giải quyết vấn đề cấp dưỡng nuôi con.

Anh Nguyễn Văn H cũng không yêu cầu Tòa án giải quyết tài sản chung và nợ chung.

Tại biên bản xác minh ngày 13 tháng 4 năm 2021 của Tòa án, Hội liên hiệp phụ nữ xã Nghi Xuân, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An cung cấp thông tin: Chị Lô Thị Giáng M và anh Nguyễn Văn H sau khi kết hôn sống với nhau khá hạnh phúc và có 01 người con chung là Nguyễn Hà Phương A, sinh năm 2016 nhưng khoảng thời gian gần một năm trở lại đây giữa vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn và hiện nay chị M, anh H đã sống ly thân.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An phát biểu ý kiến:

Ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án.

Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình: chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn là cho chị Lô Thị Giáng M được ly hôn với anh Nguyễn Văn H; ghi nhận sự thỏa thuận của chị M và anh H về việc giao con chung Nguyễn Hà Phương A, sinh ngày 10 tháng 12 năm 2016 cho anh Hiếu trực tiếp nuôi dưỡng; chị M và anh H không yêu cầu Tòa án giải quyết vấn đề cấp dưỡng nuôi con, tài sản chung và nợ chung nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét; chị Mơ phải chịu án phí theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng:

[1.1] Về thẩm quyền: Nguyên đơn yêu cầu Tòa án giải quyết về việc ly hôn, bị đơn cư trú tại xóm Xuân Sơn, xã Nghi Xuân, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An giải quyết là đúng thẩm quyền.

[1.2] Về sự vắng mặt của nguyên đơn, bị đơn: Tòa án đã tiến hành triệu tập hợp lệ nhưng nguyên đơn vắng mặt có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa, còn bị đơn triệu tập hợp lệ lần thứ hai vẫn vắng mặt. Vì vậy, căn cứ vào khoản 1 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự Hội đồng xét xử vẫn xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân:

Chị Lô Thị Giáng M và anh Nguyễn Văn H kết hôn với nhau hoàn toàn tự nguyện có đăng ký kết hôn ngày 10 tháng 02 năm 2017 tại Ủy ban nhân dân xã Nghi Xuân, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An và không vi phạm các quy định về điều kiện kết hôn tại Điều 8, Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Như vậy hôn nhân hợp pháp.

Căn cứ vào lời khai của nguyên đơn, bị đơn và kết quả xác minh về tình trạng hôn nhân giữa chị Lô Thị Giáng M và anh Nguyễn Văn H có cơ sở khẳng định: chị M và anh H trong quá trình chung sống đã xảy ra nhiều mâu thuẫn, thiếu sự quan tâm, chia sẻ lẫn nhau, vợ chồng hiện nay đã sống ly thân, không quan tâm và không có trách nhiệm với nhau. Như vậy cả hai đã vi phạm nghĩa vụ sống chung, yêu thương, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau theo quy định tại Điều 19 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Xét thấy, hôn nhân giữa chị M và anh H đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Cho nên cần áp dụng Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, xử cho Lô Thị Giáng M được ly hôn với anh Nguyễn Văn H.

[2.2] Về con chung: Chị Lô Thị Giáng M và anh Nguyễn Văn H có 01 con chung là Nguyễn Hà Phương A, sinh ngày 10 tháng 12 năm 2016. Nay ly hôn chị M và anh H thỏa thuận giao con chung Phương A cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng. Xét thấy, việc thỏa thuận của các đương sự là hoàn toàn tự nguyện và không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội nên Hội đồng xét xử ghi nhận sự thỏa thuận của chị M và anh H về việc giao con chung Nguyễn Hà Phương A cho anh H trực tiếp nuôi. Chị M và anh H không yêu cầu giải quyết vấn đề cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Chị Lô Thị Giáng M và anh Nguyễn Văn H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về án phí: Chị Lô Thị Giáng M phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Lô Thị Giáng M ly hôn với anh Nguyễn Văn H.

2. Về con chung: Ghi nhận sự thỏa thuận của chị Lô Thị Giáng M và anh Nguyễn Văn H về việc nuôi con chung như sau: giao con chung Nguyễn Hà Phương A, sinh ngày 10 tháng 12 năm 2016 cho anh H trực tiếp nuôi. Không xem xét vấn đề cấp dưỡng nuôi con do anh H và chị M không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Chị Lô Thị Giáng M có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở. Nếu chị M lạm dụng việc thăm nom con chung để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, giáo dục con chung thì anh H có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con chung.

Anh Nguyễn Văn H cùng các thành viên gia đình không được cản trở chị M trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

3. Về tài sản chung, nợ chung: không xem xét giải quyết.

4. Về án phí: chị Lô Thị Giáng M phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng chị M đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0005089 ngày 05 tháng 3 năm 2021 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An.

5. Nguyên đơn và bị đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

6. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

152
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 24/2021/HNGĐ-ST ngày 11/06/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:24/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nghi Lộc - Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về