Bản án 24/2020/HS-ST ngày 20/02/2020 về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẮC NINH,TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 24/2020/HS-ST NGÀY 20/02/2020 VỀ TỘI TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ

Ngày 20/02/2020 tại trụ sở, Toà án nhân dân thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh đưa ra xét xử sơ thẩm C khai vụ án hình sự thụ lý số: 29/2020/TLST-HS, ngày 17/01/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 20/2020/QĐXXST-HS ngày 05/02/2020 đối với bị cáo:

1. Nguyễn Trí D (tức Cộ), sinh năm 1992; Nơi cư trú: Khu 2, phường Đ, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Ngọc L, sinh năm 1965 (đã chết) và bà Trần Thị N, sinh năm 1969; Có vợ: Trần Thị Phương A, sinh năm 1988 và có 01 con: Sinh năm 2017;

Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân:

Tại bản án số: 222/2012/HSST ngày 27/9/2012 của Tòa án nhân dân thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh xử phạt D 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” Tại bản án số: 85/2014/HSST ngày 25/4/2014 của Tòa án nhân dân thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh xử phạt D 10 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 02/11/2014, đã chấp hành xong toàn bộ bản án.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 17/10/2019 đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ C an thành phố Bắc Ninh; Có mặt.

2. Nguyễn Văn P, sinh năm 1983; Nơi cư trú: Khu 3, phường Đ, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 5/12; Dân tộc:

Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Văn T, sinh năm 1954 (đã chết) và bà Phan Thị B, sinh năm 1952; Có vợ: Lý Thị M, sinh năm 1983 và có 01 con: Sinh năm 2006;

Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân:

Tại Bản án số 104/HSST ngày 23/8/1999 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh xử phạt P 04 năm tù về tội “Giết người”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 09/12/2002. Đã chấp hành xong toàn bộ Bản án.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/7/2019 đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam C an tỉnh Bắc Ninh; Có mặt.

3. Nguyễn Thành C, sinh năm 1987; Nơi cư trú: Khu 1, phường T, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Hữu T, sinh năm 1956 (đã chết) và bà Nguyễn Thị Ngọc H, sinh năm 1960; Có vợ: Lưu Hải Y, sinh năm 1986 và có 02 con: Con lớn sinh năm 2005, con nhỏ sinh năm 2009;

Tiền án: Có 02 tiền án.

Tại Bản án số 179/HSST ngày 01/8/2016 của Tòa án nhân dân thành phố Bắc Ninh xử phạt C 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, 06 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Tổng hợp hình phạt chung của 02 tội là 15 tháng tù.

Tại Bản án số 185/HSST ngày 25/6/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Bắc Ninh xử phạt C 12 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 12/3/2019.

Tiền sự: Không Nhân thân:

Ngày 14/6/2003, C an thị xã Bắc Ninh (C an thành phố Bắc Ninh) xử phạt cảnh cáo về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

Tại Quyết định số 545/QĐ ngày 06/5/2013 của UBND tỉnh Bắc Ninh đưa đi cơ sở giáo dục 24 tháng về hành vi “Trộm cắp tài sản”.

Bi cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/7/2019 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam C an tỉnh Bắc Ninh; Có mặt.

Bị hại: Võ Hữu Ph, sinh năm 1965; Nơi cư trú: Số 97, khu C, phường V, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh; Vắng mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Nguyễn Thị Ngọc H, sinh năm 1960; Nơi cư trú: Khu 1, phường T, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh; Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 12 giờ 40 phút ngày 17/7/2019, Cơ quan cảnh sát điều tra C an tỉnh Bắc Ninh phối hợp với C an huyện Thuận Thành, tỉnh Băc Ninh tiến hành kiểm tra hành chính khu nhà trọ của anh Nguyễn Văn Đoàn, sinh năm 1978, ở thôn Tam Á, xã Gia Đông, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Quá trình kiểm tra phát hiện có Nguyễn Thành C, sinh năm 1987, trú tại: Khu 1, phường Thị Cầu, thành phố Bắc Ninh đang ở khu nhà trọ của anh Đoàn. Khi đến nhà anh Đoàn, C có điều khiển chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda SH 150i, màu đỏ - đen (thường gọi là màu mận chín), không có biển kiểm soát. Tổ C tác yêu cầu C xuất trình giấy tờ tùy thân và đăng ký của chiếc xe nêu trên, C không xuất trình được các loại giấy tờ liên quan. Ngay sau đó, tổ C tác lập biên bản kiểm tra, tạm giữ chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda SH 150i, màu đỏ - đen, không có biển kiểm soát và yêu cầu C về trụ sở Cơ quan C an làm việc. Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra C an tỉnh Bắc Ninh, C khai nhận chiếc xe trên là của Nguyễn Văn P, sinh năm 1983, ở khu 3, phường Đáp Cầu, thành phố Bắc Ninh và Nguyễn Trí D, sinh năm 1992, ở khu 2, phường Đáp Cầu, thành phố Bắc Ninh trộm cắp được ngày 17/7/2019 và nhờ C đi tiêu thụ. C biết chiếc xe trên do P, D trộm cắp được mà có nhưng vẫn đồng ý mang xe đi tiêu thụ. C mang chiếc xe đến nhà anh Đoàn để bán cho anh Đoàn nhưng chưa kịp bán thì bị tổ C tác phát hiện, thu giữ như đã nêu trên.

Buổi chiều ngày 17/7/2019, Nguyễn Văn P đến Cơ quan Cảnh sát điều tra C an tỉnh Bắc Ninh đầu thú và khai nhận: Buổi sáng, khoảng 02 giờ ngày 17/7/2019 P cùng Nguyễn Trí D cùng đi trộm cắp được 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda SH 150i, màu đỏ - đen, BKS: 99G1 - 260.70 tại một nhà dân ở khu Cô Mễ, phường Vũ Ninh, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh.

Cùng ngày 17/7/2019 anh Lê Anh Tuấn, sinh năm 1983, ở khu 2, thị trấn Nếnh, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang (là người P gửi chiếc biển kiểm soát 99G1 - 260.70 tại nhà anh Tuấn) được Cơ quan Cảnh sát điều tra thông báo chiếc biển kiểm soát nêu trên là vật chứng liên quan đến vụ án nên đã tự nguyên giao nộp chiếc biển kiểm soát trên để Cơ quan điều tra xử lý.

Ngày 18/7/2019, anh Võ Hữu Ph, sinh năm 1965, ở số 97, khu Cô Mễ, phường Vũ Ninh, thành phố Bắc Ninh đến Cơ quan Cảnh sát điều tra C an tỉnh Bắc Ninh trình báo về việc buổi sáng ngày 17/7/2019, anh bị kẻ gian đột nhập, trộm cắp của anh 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda SH 150i, màu đỏ - đen, BKS: 99G1 - 260.70.

Ngày 10/10/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra C an thành phố Bắc Ninh ra Quyết định khởi tố, Lệnh bắt để tạm giam đối với Nguyễn Trí D. Ngày 14/10/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra C an thành phố Bắc Ninh ra Quyết định truy nã D. Ngày 17/10/2019 Cơ quan Cảnh sát điều tra C an thành phố Bắc Ninh bắt được Nguyễn Trí D.

Quá trình điều tra, cơ quan Cảnh sát điều tra C an thành phố Bắc Ninh đã điều tra, xác minh làm rõ: Khoảng 02 giờ ngày 17/7/2019, Nguyễn Trí D điều khiển xe mô tô Yamaha Sirius (D không nhớ biển kiểm soát vì xe này D mượn của một người bạn D mới quen) từ nhà D đến nhà P rủ P đi trộm cắp tài sản bán lấy tiền tiêu xài, P đồng ý. Khi đi P mang theo 01 chiếc xà cầy bằng sắt, dài khoảng 60cm, phi 16, một đầu bẹt để trộm cắp tài sản. D điều khiển xe chở P đến nhà anh Võ Hữu Ph. D, P phát hiện cửa nhà là loại cửa xếp, khóa ngoài. D dừng xe, đứng ở ngoài cảnh giới. P đi vào dùng chiếc xà cầy mang theo từ trước phá khóa, rồi đột nhập vào trong nhà. P phát hiện có 02 xe mô tô, 01 chiếc là xe mô tô nhãn hiệu Honda SH 150i, màu đỏ - đen, BKS: 99G1 - 260.70; 01 chiếc là xe mô tô Honda Wave màu đỏ - đen, BKS:

259.21 dựng ở hiên nhà, hai xe được khóa với nhau bằng một đoạn dây xích. P tiếp tục lục soát, tìm kiếm tài sản có giá trị, P thấy 01 chùm chìa khóa để trên mặt cầu thang tầng 01. P đi lên tầng 02 thì thấy 01 chiếc chìa khóa của xe SH để ở mặt bàn phòng ngủ thứ nhất bên phải, hướng từ cầu thang tầng 01 đi lên. Sau đó P đi xuống tầng 01, dùng chùm chìa khóa để ở cầu thang tầng 01 mở khóa xích 02 xe mô tô. P lấy chìa khóa xe SH mở khóa xe, dắt chiếc xe Honda SH 150i, màu đỏ - đen, BKS:

99G1- 260.70 ra ngoài. P vứt khóa dây xích và ổ khóa bị phá ở hiên nhà, đoạn gần chỗ để 02 xe mô tô lúc trước. Sau đó P để chiếc xà cầy lên xe của D, còn P điều khiển chiếc xe vừa trộm cắp được về nhà P. D điều khiển xe của D theo về nhà P. P vứt chiếc xà cầy ở góc cửa bên tay trái bên ngoài nhà P rồi gọi điện thoại cho anh Lê Anh Tuấn, sinh năm 1983, ở khu 2, thị trấn Nếnh, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang để P gửi nhờ chiếc xe mô tô tại nhà anh Tuấn. Anh Tuấn đồng ý. P và D mỗi người điều khiển 01 xe, P điều khiển chiếc xe vừa trộm cắp được lên nhà anh Tuấn. Đến nhà anh Tuấn, P gửi lại chiếc xe mô tô vừa trộm cắp được. P vay của anh Tuấn số tiền 500.000 đồng, anh Tuấn đồng ý cho P vay tiền. P và D quay lại nhà P ngủ. Đến khoảng 09 giờ cùng ngày, D gọi điện thoại cho Nguyễn Thành C đến nhà P. Tại đây D nói cho C biết việc D và P vừa trộm cắp được chiếc xe SH, D nhờ C mang chiếc xe vừa trộm cắp được đi tiêu thụ, C đồng ý. C gọi điện thoại cho anh Nguyễn Văn Đoàn, C thỏa thuận bán chiếc xe trên cho anh Đoàn với giá 18.000.000 đồng. Anh Đoàn bảo C mang xe xuống nhà anh Đoàn để kiểm tra xe. Sau đó, C điều khiển xe của C chở P ngồi sau lên nhà anh Tuấn để lấy lại chiếc xe Honda SH 150i, BKS:

99G1 - 260.70 P đã gửi lại nhà anh Tuấn. Khi đến nhà anh Tuấn, P lấy xe và tháo chiếc biển kiểm soát 99G1 - 260.70 của xe ra để lại nhà anh Tuấn để làm tin, nhờ anh Tuấn giữ vì P chưa có tiền trả anh Tuấn. P hẹn anh Tuấn lát sẽ trả vì phải đi có việc gấp. C điều khiển chiếc xe Honda SH 150i, BKS: 99G1 - 260.70 xuống nhà anh Đoàn để bán thì bị lực lượng C an tỉnh Bắc Ninh và C an huyện Thuận Thành kiểm tra phát hiện, thu giữ xe như đã nêu ở trên.

Ngày 19/7/2019 Cơ quan Cảnh sát điều tra C an tỉnh Bắc Ninh yêu cầu định giá tài sản đối với chiếc xe mô tô Honda SH 150i, màu đỏ - đen BKS: 99G1 - 260.70.

Tại bản kết luận định giá số 762/KL-HĐ ngày 30/7/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự UBND tỉnh Bắc Ninh kết luận: chiếc xe mô tô Honda SH 150i, màu đỏ - đen BKS: 99G1 - 260.70 có giá trị tại thời điểm định giá là 60.167.000 đồng.

Vật chứng thu giữ và xử lý vật chứng: Ngoài chiếc xe mô tô Honda SH150i, màu đỏ - đen và chiếc biển kiểm sát 99G1 - 260.70 nêu trên, Cơ quan Cảnh sát điều tra C an tỉnh Bắc Ninh còn thu giữ của P 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đen đã qua sử dụng, số imeil 1: 865498044993350, imeil 2: 865498044993343 kèm theo 01 sim số 0921396623. Thu giữ của C 01 điện thoại di động nhãn hiệu MUSSTEL màu đen đã qua sử dụng, kèm theo sim số 0868.211.620.

Đối với chiếc xà cầy P sử dụng làm C cụ thực hiện hành vi trộm cắp tài sản ngày 17/7/2019, sau khi trộm cắp P vứt chiếc xà cầy phía bên ngoài nhà P. Cơ quan Cảnh sát điều tra chưa thu giữ được vì chiêc xà cầy không còn ở vị trí theo lời P khai.

Đối với chiếc điện thoại D sử dụng ngày 17/7/2019, sau khi bỏ trốn, do cần tiền D đã bán chiếc điện thoại này cho một người đàn ông không quen biết. Vì vậy Cơ quan Cảnh sát điều tra C an thành phố Bắc Ninh chưa thu hồi được. Khi nào thu hồi được xử lý sau.

Đối với 02 chiếc xe mô tô mà D, C sử dụng ngày 17/7/2019, 02 chiếc xe trên D và C mượn của bạn bè xã hội (D, C không biết tên, địa chỉ cụ thể của những người này) để sử dụng, sau đó đã trả lại. Vì vậy Cơ quan điều tra không xem xét giải quyết đối với 02 chiếc xe này.

Trách nhiệm dân sự: Ngày 31/7/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra C an tỉnh Bắc Ninh đã trả lại anh Ph chiếc xe mô tô Honda SH 150i, màu đỏ - đen và chiếc biển kiểm sát 99G1 - 260.70. Anh Ph không yêu cầu P, D phải bồi thường gì khác.

Với nội dung vụ án như trên, bản Cáo trạng số: 17/CT-VKSTPBN, ngày 17/01/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Ninh đã truy tố Nguyễn Trí D và Nguyễn Văn P về tội "Trộm cắp tài sản" theo Điểm c, Khoản 2, Điều 173 của Bộ luật hình sự; Nguyễn Thành C về tội "Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có" theo Điểm đ, Khoản 2, Điều 323 của Bộ luật hình sự.

Quá trình xét hỏi tại phiên toà D, P và C đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu ở trên.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Ninh thực hành quyền C tố, sau khi phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội cũng như nhân thân của các bị cáo vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố Nguyễn Trí D và Nguyễn Văn P về tội "Trộm cắp tài sản" theo Điểm c, Khoản 2, Điều 173 của Bộ luật hình sự; Nguyễn Thành C về tội "Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có" theo Điểm đ, Khoản 2, Điều 323 của Bộ luật hình sự và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điểm c, Khoản 2, Điều 173; Điểm s, Khoản 1, (Khoản 2 đối với bị cáo P đầu thú), Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Trí D từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm tù, Nguyễn Văn P từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù. Áp dụng Điểm đ, Khoản 2, Điều 323; Điểm s, Khoản 1, Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Thành C từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù.

Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47, 48 Bộ luật hình sự. Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại nhãn hiệu OPPO màu đen đã qua sử dụng, kèm 01 sim; Trả lại bà H 01 điện thoại nhãn hiệu MUSSTEL màu đen đã qua sử dụng, kèm 01 sim.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản và không yêu cầu gì nên không đặt ra xem xét.

Các bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng đã truy tố là đúng. Bị cáo không tham gia tranh luận với đại diện Viện kiểm sát mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay là hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án cùng vật chứng thu giữ, Hội đồng xét xử xét thấy đã có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 02 giờ ngày 17/7/2019, Nguyễn Trí D và Nguyễn Văn P đã có hành vi lén lút rộm cắp 01 chiếc xe mô tô Honda SH 150Ì, màu đỏ 4en BKS: 99G1- 260.70 có trị giá 60.167.000 đồng của anh Võ Hữu Ph, sinh năm 1965 số nhà 97, khu Cô Mễ, phường Vũ Ninh, thành phố Bắc Ninh. Sau đó D đã nhờ Nguyễn Thành C mang chiếc xe đi bán lấy tiền. C biết chiếc xe trên do D và P trộm cắp được mà có nhưng vẫn đồng ý mang chiếc xe trên đi bán cho anh Nguyễn Văn Đoàn. Tuy nhiên khi C chưa kịp bán cho anh Đoàn thì bị lực lượng Cơ quan Cảnh sát điều tra C an tỉnh Bắc Ninh và C an huyện Thuận Thành phối hợp bắt giữ. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Ninh truy tố Nguyễn Trí D, Nguyễn Văn P về tội "Trộm cắp tài sản" theo Điểm c, Khoản 2, Điều 173 của Bộ luật hình sự và Nguyễn Thành C về tội "Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có" theo Điểm đ, Khoản 2, Điều 323 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an trên địa bàn thành phố, gây tâm lý hoang mang, lo lắng trong quần chúng nhân dân. Do vậy, cần phải có một hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo nhằm giáo dục bị cáo riêng và phòng ngừa chung.

Đây là vụ án đồng phạm nhưng là đồng phạm giản đơn, không có sự phân C, câu kết chặt chẽ. Bị cáo D và P cùng thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Trong đó: bị cáo P là người chuẩn bị C cụ để thực hiện hành vi phạm tội (chiếc xà cày), trực tiếp thực hiện hành vi trộm cắp tài sản; bị cáo D là người rủ P đi trộm cắp, đứng ngoài cảnh giới để P thực hiện hành vi trộm cắp. Do vậy vai trò của 02 bị cáo là ngang nhau. Bị cáo C chịu trách nhiệm riêng về hành vi Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.

Xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo thì thấy: Cả ba bị cáo đều có nhân thân xấu, các bị cáo đều đã nhiều lần vi phạm pháp luật.

Đối với bị cáo D đã 02 lần bị xét xử, cụ thể là: Tại bản án số: 222/2012/HSST ngày 27/9/2012 của Tòa án nhân dân thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh xử phạt D 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Tại bản án số: 85/2014/HSST ngày 25/4/2014 của Tòa án nhân dân thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh xử phạt D 10 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 02/11/2014, đã chấp hành xong toàn bộ bản án. Các bản án này đã được xóa án tích theo quy định. Sau khi phạm tội đã bỏ trốn và bị bắt theo Lệnh truy nã.

Đối với bị cáo P đã 01 lần bị xét xử, cụ thể là: Tại Bản án số 104/HSST ngày 23/8/1999 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh xử phạt P 04 năm tù về tội “Giết người”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 09/12/2002. Đã chấp hành xong toàn bộ Bản án, đã được xóa án tích theo quy định. Sau khi phạm tội đã ra đầu thú nên được hưởng tình tiết giảm nhệ trách nhiệm hình sự quy định tại Khoản 2, Điều 51 Bộ luật hình sự.

Đối với bị cáo C đã rất nhiều lần vi phạm pháp luật, trong đó có 02 lần bị xét xử chưa được xóa án nay lại phạm tội là tình tiết định khung hình phạt tái phạm nguy hiểm, cụ thể là: Tại Bản án số 179/HSST ngày 01/8/2016 của Tòa án nhân dân thành phố Bắc Ninh xử phạt C 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, 06 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Tổng hợp hình phạt chung của 02 tội là 15 tháng tù. Tại Bản án số 185/HSST ngày 25/6/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Bắc Ninh xử phạt C 12 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 12/3/2019. Ngoài ra bị cáo còn bị xử lý vi phạm pháp luật như sau: Ngày 14/6/2003, C an thị xã Bắc Ninh (C an thành phố Bắc Ninh) xử phạt cảnh cáo về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Tại Quyết định số 545/QĐ ngày 06/5/2013 của UBND tỉnh Bắc Ninh đưa đi cơ sở giáo dục 24 tháng về hành vi “Trộm cắp tài sản”.

Song cả ba bị cáo đều thành khẩn khai báo, nên các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại Điểm s, Khoản 1, Điều 51 BLHS. Bị cáo P sau khi phạm tội đã ra Cơ quan C an đầu thú, là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Vì vậy, Hội đồng xét xử thấy cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo khi lượng hình.

Sau khi xem xét, đánh giá tính chất và mức độ hành vi phạm tội cũng như nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo và xét đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Ninh là phù hợp, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải xét xử các bị cáo bằng hình phạt tù cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định mới giúp các bị cáo cải tạo trở thành người C dân tốt có ích cho xã hội.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại là anh Ph đã nhận lại đầy đủ tài sản bị trộm cắp đến nay không có ý kiến hay yêu cầu bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không đề cập xem xét giải quyết.

Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47, 48 Bộ luật hình sự. Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đen đã qua sử dụng, số imeil 1: 865498044993350, imeil 2: 865498044993343 kèm theo 01 sim số 0921396623 thu giữ của P, là C cụ để thực hiện hành vi phạm tội ngày 17/7/2019 nên cần tịch thu xung quỹ Nhà nước.

Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu MUSSTEL màu đen đã qua sử dụng, kèm theo sim số 0868.211.620 thu giữ của C là điện thoại C mượn của bà H, là mẹ đẻ của bị cáo. Bà H không biết C sử dụng để liên lạc thực hiện hành vi phạm tội nên cần trả lại cho bà H.

Liên quan trong vụ án này:

Anh Lê Tuấn Anh là người P gửi nhờ chiếc xe Honda SH 150i, màu đỏ đen BKS: 99G1 - 260.70. Tuy nhiên anh Tuấn Anh không biết chiếc xe trên do P trộm cắp được mà có nên Cơ quan Cảnh sát điều tra C an thành phố Bắc Ninh không đề cập xử lý là phù hợp.

Đối với anh Lê Văn Đoàn, là người C liên lạc để bán chiếc xe Honda SH 150i, màu đỏ - đen không có biển kiểm soát. Tuy nhiên anh Đoàn chưa mua chiếc xe trên, đồng thời anh Đoàn không biết chiếc xe trên do trộm cắp được mà có nên Cơ quan Cảnh sát điều tra C an thành phố Băc Ninh không đề cập xử lý là phù hợp.

Đối với chiếc xà cầy P sử dụng làm C cụ thực hiện hành vi trộm cắp tài sản ngày 17/7/2019, sau khi trộm cắp P vứt chiếc xà cầy phía bên ngoài nhà P. Cơ quan Cảnh sát điều tra đẵ tiến hành thu giữ nhưng chưa thu giữ được vì chiếc xà cầy không còn ở vị trí như theo lời khai của P, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

Đối với chiếc điện thoại D sử dụng ngày 17/7/2019, sau khi bỏ trốn, do cần tiên D đã bán chiếc điện thoại này cho một người đàn ông không quen biết. Vì vậy Cơ quan Cảnh sát điều tra C an thành phố Bắc Ninh chưa thu hồi được. Khi nào thu hồi được sẽ xử lý sau.

Đối với 02 chiếc xe mô tô mà D, C sử dụng ngày 17/7/2019, 02 chiếc xe trên D và C mượn của bạn bè xã hội để sử dụng (D, C không biết tên, địa chỉ cụ thể của những người này), sau đó đã trả lại. Vì vậy Cơ quan điều tra không xem xét giải quyết đối với 02 chiếc xe này.

Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Trí D và bị cáo Nguyễn Văn P phạm tội "Trộm cắp tài sản". Bị cáo Nguyễn Thành C phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.

Áp dụng Điểm c, Khoản 2, Điều 173; Điểm s, Khoản 1, Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự. Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự:

Xử phạt Nguyễn Trí D 45 (bốn mươi lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 17/10/2019.

Quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để đảm bảo thi hành án.

Áp dụng Điểm c, Khoản 2, Điều 173; Điểm s, Khoản 1, Khoản 2, Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự. Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự:

Xử phạt Nguyễn Văn P 40 (bốn mươi) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 17/7/2019.

Quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để đảm bảo thi hành án.

Áp dụng Điểm đ, Khoản 2, Điều 323; Điểm s, Khoản 1, Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự. Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự:

Xử phạt Nguyễn Thành C 38 (ba mươi tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 19/7/2019.

Quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để đảm bảo thi hành án.

Áp dụng Điều 47; 48 Bộ luật hình sự. Điều 106; Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án:

Về xử lý vật chứng:

Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đen đã qua sử dụng, số imeil 1: 865498044993350, imeil 2:865498044993343 kèm theo 01 sim số 0921396623.

Trả lại bà Nguyễn Thị Ngọc H chiếc điện thoại di động nhãn hiệu MUSSTEL màu đen đã qua sử dụng, kèm theo sim số 0868.211.620.

Về án phí: Mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ tiền án phí HSST.

Về quyền kháng cáo: Các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm;

Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

275
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 24/2020/HS-ST ngày 20/02/2020 về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

Số hiệu:24/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Ninh - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/02/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về