Bản án 24/2020/HS-ST ngày 15/09/2020 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGHI XUÂN, TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 24/2020/HS-ST NGÀY 15/09/2020 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 15 tháng 9 năm 2020 tại Hội trường Tòa án nhân dân huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 24/2020/TLST-HS ngày 21 tháng 8 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 24/2020/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 9 năm 2020 đối với bị cáo:

Phan Minh Th; Tên gọi khác: không; Giới tính: nam; Sinh ngày 01/02/1989, tại TDP A, thị trấn Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh; Nơi cư trú: TDP 1, thị trấn Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh;Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 9/12; Con ông: Phan Văn G, sinh năm 1938; Con bà: Hồ Thị N, sinh năm 1951; Nơi cư trú: TDP A, thị trấn Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh; Bị cáo chưa có vợ, con; Anh chị em ruột có 3 người, bị cáo là con thứ hai; Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân:

+ Ngày 03/01/2012 bị Công an huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh xử phạt vi phạm hành chính 500.000đ về hành vi gây thương tích.

+ Ngày 13/5/2020 bị Tòa án nhân dân huyện Nghi Xuân xét xử 07 tháng tù cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản”.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 31/5/2020 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hà Tĩnh “có mặt”.

- Người bị hại:

+ Lê Hữu B – Sinh năm 1968; Nghề nghiệp: Xây dựng; Nơi cư trú: Thôn Hồng T, xã Xuân Giang, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh; “Có mặt”.

- Người làm chứng:

1. Đinh Bá Kh – Sinh năm 1947; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Nơi cư trú: TDP B, TT Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh “Vắng mặt”.

2. Trần Anh T – Sinh năm 1968; Nghề nghiệp: CT UBND xã Xuân Giang, Nghi Xuân; Nơi cư trú: Thôn Lam Th, xã Xuân Giang, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh “Vắng mặt”.

3. Đậu Thị H – Sinh năm 1974; Nghề nghiệp: Buôn bán; Nơi cư trú: Thôn Hồng N, xã Xuân Giang, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh “Vắng mặt”.

4. Lê Văn V – Sinh năm 1969; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Nơi cư trú: Thôn An T, xã Xuân Giang, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh “Vắng mặt”.

5. Hồ Văn Th1 – Sinh năm 1970; Nghề nghiệp: Cán bộ UBND xã Xuân Giang, Nghi Xuân; Nơi cư trú: Thôn Hồng T, xã Xuân Giang, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh “Vắng mặt”.

6. Trần Đình Th2 – Sinh năm 1976; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Nơi cư trú: Thôn Lam Th, xã Xuân Giang, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh “Vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 15 giờ 30 phút ngày 29/5/2020, Phan Minh Th cùng với ông Đinh Bá Kh cùng nhau đi uống bia tại quán chị Hu tại thôn Lam Thủy, xã Xuân Giang, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Tại đây, ông Đinh Bá Kh và anh Phan Minh Th gặp ông Lê Hữu B (hiện cư trú tại thôn 5A xã Ea Kly, huyện K Rông Păk, tỉnh Đăk Lăk). Do ông Kh có quen biết ông B nên ông Kh mời ông B ngồi uống bia cùng bàn với mình và anh Th. Uống được một lúc thì ông B nói với ông Kh và anh Th đến quán bia Hoa Nội ở thôn Hồng Nhất xã Xuân Giang, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh uống tiếp vì bia ở quán này ngon hơn thì được ông Kh và anh Th đồng ý. Đến khoảng 18 giờ 30 phút, cả ba người không uống nữa và gọi chị H (chủ quán bia Hoa Nội) để thanh toán. Lúc này Th hỏi “Ai thanh toán đây?” (ý hỏi ông B và ông Kh) nhưng không ai nhận trả tiền nên anh Th trả tiền cho chị H hết 120.000đ. Lúc này ông Kh nói với ông B “Ông mời thì trả tiền đi, hắn không có tiền mô”, sau khi ông Kh nói vậy thì ông B trả tiền cho chị H và chị H trả tiền lại cho anh Th. Sau đó cả ba người ra về, ông Kh chở anh Th, còn ông B đi một mình phía sau theo đường đê ven sông Lam hướng thị trấn Tiên Điền. Khi đi đến khu vực phía sau Đền huyện thấy ông B đi xe đến gần, do bực bội việc ông B mời uống bia mà không trả tiền, Phan Minh Th nhảy xuống xe và nói ông Kh đi về trước. Khi đó ông Lê Hữu B đi đến chỗ Th đứng thì Phan Minh Th đã lấy chiếc gậy ba khúc bằng kim loại dấu sẵn trong người ra đánh ông B trúng nhẹ vào đầu, bị đánh bất ngờ nên ông B bỏ xe máy rồi chạy vào nhà ông Lê Văn V ở thôn Hồng Nhất xã Xuân Giang, huyện Nghi Xuân, đứng nói chuyện với ông V một lúc thì ông V có việc phải đi, lúc này ông B nhặt một chiếc gậy mét bên đường quay lại chỗ Phan Minh Th. Còn Phan Minh Th sau khi thấy ông B bỏ chạy thì lấy chiếc xe máy của ông B đi tìm, nhưng tìm không được nên Th quay lại chỗ cũ thì gặp ông B. Th tiếp tục dùng gậy ba khúc bằng kim loại đánh ông B vào phần đầu, mặt, cánh tay trái, mạn sườn và chân bên trái gây thương tích cho ông B. Quá trình bị đánh ông B có dùng gậy mét chống trả nhưng không gây thương tích gì cho Phan Minh Th. Sự việc được phát hiện khi có ông Trần Anh T - Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Xuân Giang và anh Hồ Văn Th1, cán bộ Ủy ban nhân dân xã Xuân Giang đi qua và gọi điện trình báo với Cơ quan Công an, bị phát hiện Phan Minh Th bỏ đi khỏi hiện trường và làm rơi lại chiếc gậy ba khúc bằng kim loại. Về phía ông Lê Hữu B sau khi bị đánh đã được người dân đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện Hữu nghị đa khoa tỉnh Nghệ An từ ngày 29/5/2020 đến ngày 03/6/2020 thì ra viện Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số: 50/TgT ngày 31/05/2020 của Trung tâm pháp y và giám định y khoa sở y tế Hà Tĩnh kết luận như sau: Vùng đỉnh trái vết thương kích thước dài 3,5cm; Vùng chẩm trái vết thương kích thước dài 2,5cm; Gãy xương hàm trên bên trái; Gãy 1/3 giữa xương trụ cẳng tay trái; Gãy 1/3 trên xương mác cẳng chân trái; Mặt trước 1/3 trên cẳng chân phải vết xây xát da kích thước dài 03cm; Mặt trước 1/3 giữa cẳng chân trái vết thương kích thước dài 01cm. Căn cứ bảng tỷ lệ tổn thương cơ thể ban hành kèm theo Thông tư số 22/2019/TT-BYT ngày 28/8/2019 của Bộ Y Tế: Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 22%.

Vật chứng thu giữ:

Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Nghi Xuân đã thu giữ: 01 chiếc gậy bằng kim loại, có kích thước dài 65cm, đặc điểm loại gậy ba khúc thu vào và rút ra, khúc to nhất bọc nhựa màu đen có chu vi 0,27cm, khúc nhỏ nhất bằng kim loại chu vi 0,10cm.

Về trách nhiệm dân sự: Sau khi gây thương tích cho ông Lê Hữu B, Phan Minh Th bị khởi tố và bị bắt tạm giam, gia đình bị cáo không có trách nhiệm giúp bị cáo khắc phục hậu quả. Bị hại Lê Hữu B có đơn yêu cầu bồi thường các khoản chi phí cụ thể: Tiền thuê xe 700.000đ; Tiền bông băng bó bột 3 đợt hết 1.770.000đ; Tiền sữa can xi liền xương 3 hộp x 650.000 = 1.950.000đ; Tiền người nhà chăm sóc ăn uống tại bệnh viện 3 người gồm cả bệnh nhân 3 người x6 ngày= 1.800.000đ; Tiền về nhà chăm sóc gồm cả bệnh nhân 2 người 150.000đ/1 ngày x45 ngày = 6.750.000đ; Tiền thuốc Can xi về nhà uống 1 viên 15.000đ x 2 v/ngày x 30 ngày = 900.000đ; Tiền sao chép hồ sơ bệnh án 70.000đ; Tiền viện phí nằm viện 3.643.000đ; Tiền thuốc ông Nga Lộc + thuốc bổ điều trị ở nhà = 5.280.000đ; Tiền 3 tháng hồi phục, không đi làm được 3 tháng x 12.000.000đ = 36.000.000đ. Tổng = 58.863.000đ, số tiền yêu cầu Phan Minh Th bồi thường là 58.860.000đ.

Bản cáo trạng số 23/2020/CT-VKSNX ngày 20 tháng 8 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh đã truy tố bị cáo Phan Minh Th về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, kiểm sát viên trình bày lời luận tội, đề nghị kết tội bị cáo theo toàn bộ nội dung cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Phan Minh Th phạm tội “Cố ý gây thương tích” và áp dụng điểm đ khoản 2 điều 134, các điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Phan Minh Th từ 36 - 42 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giam 31/5/2020.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 điều 47 Bộ luật hình sự; các điểm a,c khoản 2 điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 chiếc gậy bằng kim loại, có kích thước dài 65cm, đặc điểm loại gậy ba khúc thu vào và rút ra, khúc to nhất bọc nhựa màu đen có chu vi 0,27cm, khúc nhỏ nhất bằng kim loại chu vi 0,10cm. Đặc điểm vật chứng có tại biên bản giao nhận vật chứng ngày 21/8/2020 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.

Tại phiên tòa bị hại ông Lê Hữu B yêu cầu Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện thỏa thuận mức bồi thường, bị cáo Phan Minh Th có trách nhiệm bồi thường số tiền 40.000.000đồng (bốn mươi triệu đồng) cho bị hại ông Lê Hữu B.

Tại phiên tòa bị cáo, bị hại đồng ý với luận tội của Kiểm sát viên, không có tranh luận và chỉ xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Nhận định của Tòa án về việc vắng mặt người làm chứng liên quan đến vụ án, người làm chứng tại phiên tòa: Phiên tòa vắng mặt những người làm chứng, nhưng xét việc vắng mặt không ảnh hưởng đến việc xét xử nên không cần thiết phải hoãn phiên tòa phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 293 của Bộ luật tố tụng hình sự.

[2] Nhận định của Hội đồng xét xử về tội danh; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và các điều luật áp dụng đối với bị cáo:

Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo Phan Minh Th đều khai nhận tội đúng như nội dung vụ án đã được nêu tóm tắt ở phần nội dung vụ án. Xét lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng; phù hợp với biên bản sự việc và phù hợp với vật chứng cũng như các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Bị cáo ý thức được hành vi dùng gậy ba khúc bằng kim loại đánh vào người bị hại sẽ ảnh hưởng tới sức khỏe, tính mạng của bị hại. Tuy vậy hành vi của bị cáo là bột phát, do bực tức việc trả tiền uống bia, không có ý thức tước đoạt sinh mạng của bị hại, bị cáo không có động cơ giết người. Xét năng lực chịu trách nhiệm hình sự và hành vi dùng gậy ba khúc bằng kim loại cố ý gây thương tích cho ông Lê Hữu B với tỉ lệ tổn hại sức khỏe là 22% của bị cáo thì đã có đầy đủ cơ sở để kết luận bị cáo Phan Minh Th phạm tội cố ý gây thương tích theo điểm đ khoản 2 điều 134 Bộ luật hình sự.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, nó đã xâm phạm đến quyền được bảo hộ về sức khỏe của con người, bị cáo phạm tội với hai tình tiết định khung là “dùng hung khí nguy hiểm” và “có tính chất côn đồ” do đó cần phải xử phạt nghiêm đối với bị cáo và cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để có đủ điều kiện cải tạo, giáo dục đối với bị cáo cũng như răn đe và phòng ngừa chung. Tuy vậy khi quyết định hình phạt cũng cần xem xét cho bị cáo một phần vì đã thành khẩn khai báo; bị cáo có giấy xác nhận là người có công trong công tác phát hiện, tố giác tội phạm và bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo tại phiên tòa theo quy định tại điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51của Bộ luật hình sự.

[3] Phân tích chấp nhận hay không chấp nhận đề nghị của Kiểm sát viên, bị hại và bị cáo:

Xét các nội dung đề xuất đối với Hội đồng xét xử của Kiểm sát viên, bị hại và bị cáo tại phiên tòa là phù hợp do đó Hội đồng xét xử chấp nhận các đề nghị này.

[4] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử:

Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[5] Về xử lý vật chứng: Cần áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 1, điểm a và điểm c khoản 2 điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 chiếc gậy bằng kim loại, có kích thước dài 65cm, đặc điểm loại gậy ba khúc thu vào và rút ra, khúc to nhất bọc nhựa màu đen có chu vi 0,27cm, khúc nhỏ nhất bằng kim loại chu vi 0,10cm. Đặc điểm vật chứng có tại biên bản giao nhận vật chứng ngày 21/8/2020 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa bị hại ông Lê Hữu B và bị cáo Phan Minh Th đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận sự thỏa thuận, bị cáo Phan Minh Th bồi thường các khoản chi phí điều trị, bồi dưỡng, tiền công người nuôi dưỡng, tiền giảm sút thu nhập với số tiền 40.000.000đ (bốn mươi triệu đồng) cho bị hại ông Lê Hữu B.

[7] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải nộp án phí; Bị cáo, bị hại, có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự;

Căn cứ khoản 1 Điều 293, khoản 1 Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự; Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; khoản 1 và các điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

Căn cứ vào Điều 584, 585, 586, 590 của Bộ luật dân sự.

Căn cứ vào Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 3, khoản 1 Điều 6, khoản 1 điều 21, điểm a và điểm c khoản 1 điều 23, Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, Nghị quyết Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

[1] Tuyên bố bị cáo Phan Minh Th phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

[2] Xử phạt bị cáo Phan Minh Th 36 (ba mươi sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giam 31/5/2020.

[3] Tịch thu tiêu hủy: 01 chiếc gậy bằng kim loại, có kích thước dài 65cm, đặc điểm loại gậy ba khúc thu vào và rút ra, khúc to nhất bọc nhựa màu đen có chu vi 0,27cm, khúc nhỏ nhất bằng kim loại chu vi 0,10cm. Đặc điểm vật chứng có tại biên bản giao nhận vật chứng ngày 21/8/2020 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.

[4] Trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo Phan Minh Th phải bồi thường cho ông Lê Hữu B các khoản chi phí điều trị, bồi dưỡng, tiền công người nuôi dưỡng, tiền giảm sút thu nhập với số tiền 40.000.000đ (bốn mươi triệu đồng).

Kể từ ngày bên được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bên phải thi hành án không thi hành án khoản tiền phải trả, thì hàng tháng còn phải chịu tiền lãi theo quy định khoản 2 điều 468 Bộ luật dân sự quy định tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

[5] Buộc bị cáo Phan Minh Th phải nộp 200.000 (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 2.000.000 (hai triệu đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

[6] Bị cáo, bị hại có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Trường hợp bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự năm 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2015; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự năm 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2015.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

198
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 24/2020/HS-ST ngày 15/09/2020 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:24/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nghi Xuân - Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về