Bản án 24/2020/HS-ST ngày 14/08/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN C, TỈNH L

BẢN ÁN 24/2020/HS-ST NGÀY 14/08/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 14 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện C Đ, tỉnh L xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 21/2020/TLST-HS ngày 21 tháng 7 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 22/2020/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 8 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Tuấn K, sinh năm: 1996 (Tên gọi khác: Hiếu); Nơi ĐKNKTT và cư trú hiện nay: Ấp 5, xã P, huyện C Đ, tỉnh L; Nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ học vấn: 05/12; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông: Nguyễn Thanh Th và bà: Đặng Thị B; Vợ: Bùi Thị Hồng V; Có 01 người con, sinh năm 2018; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 12/5/2020 đến ngày 12/11/2020, có mặt tại phiên tòa.

Bị hại:

1/ Anh Dương Vĩnh T, sinh năm: 1986;

2/ Chị Cao Thị Kim Th, sinh năm: 1985;

Cùng địa chỉ: Khu 3, thị trấn C Đ, huyện C Đ, tỉnh L.

3/ Bà Nguyễn Thị H, sinh năm: 1967; Địa chỉ: Ấp 1, xã P, huyện C Đ, tỉnh L.

4/ Anh Nguyễn Hoàng L, sinh năm: 1984;

5/ Chị Đặng Thị Thu M, sinh năm: 1985;

Cùng địa chỉ: Ấp 3, xã P, huyện C Đ, tỉnh L.

6/ Ông Nguyễn Đ, sinh năm: 1958;

7/ Bà Huỳnh Kim Y, sinh năm: 1956;

Cùng địa chỉ: Ấp X , xã T L, huyện C Đ, tỉnh L.

8/ Ông Lưu Văn Tr , sinh năm: 1966;

9/ Bà Lê Thị R , sinh năm: 1967;

Cùng địa chỉ: Số 11A, tổ 1, Khu 4, thị trấn C Đ, huyện C Đ, tỉnh L.

Người có quyền lợi – nghĩa vụ liên quan:

1/ Chị Bùi Thị Hồng V, sinh năm: 1995;

Địa chỉ: Ấp 5, xã P, huyện C Đ, tỉnh L.

2/ Ông Bùi Văn Lâu, sinh năm: 1968;

Địa chỉ: Ấp Đ, xã T C, huyện C Đ, tỉnh L.

( Bị cáo, anh T, ông Tr , chị V, ông Lâu có mặt; những người khác vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Về hành vi của bị cáo: Trong thời gian từ cuối năm 2019 đến ngày 11/3/2020, Nguyễn Tuấn K có nghề nghiệp là công nhân, đã một mình thực hiện 05 vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện C Đ, cụ thể:

Lần 1: Rạng sáng ngày 13/8/2019, trên đường đi làm từ Cần Giuộc về C Đ, K điều khiển xe biển số 62L1 - 426.91 lưu thông trên QL50, ngang qua quán ăn “KEN” của chị Nguyễn Thị H thuộc Ấp 1, xã P. K thấy trước quán có 01 thùng loa hiệu KOZIO và 02 micro hiệu MIO, nên nảy sinh ý định chiếm đoạt đem về sử dụng. K dùng kìm có sẵn trong cốp xe, cắt dây cáp khóa cửa rào lưới B40, vào lấy tài sản trên đem về nhà cất giấu.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 34/KL - HĐĐGTS ngày 04/5/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện C Đ kết luận: 01 thùng loa hiệu KOZIO và 02 micro hiệu MIO giá 7.581.000đ.

Lần 2: Rạng sáng ngày 22/12/2019, trên đường đi làm từ Cần Giuộc về C Đ, K điều khiển xe biển số 62L1 - 426.91 lưu thông trên QL50. Khi đến quán của anh Nguyễn Hoàng L thuộc Ấp 3, xã P, thấy quán không có người trông giữ, K tìm xung quanh thấy 01 thanh sắt dẹp dài khoảng 20cm nằm bên hông quán, lấy thanh sắt cạy bung tay cầm cửa kính, đột nhập vào quán lấy 01 thùng loa hiệu TXOBR và 02 micro hiệu MIO, rồi kêu vợ là Bùi Thị Hồng V đến khiêng phụ bỏ lên xe, chở về nhà.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 28/KL-HĐĐGTS ngày 22/4/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện C Đ kết luận: 01 thùng loa hiệu TXOBR và 02 cái micro hiệu MIO giá 9.137.000đ.

Lần 3: Rạng sáng ngày 09/01/2020, trên đường đi làm về K điều khiển xe biển số 62L1-426.91 đến quán cà phê của anh Nguyễn Đ ngụ ấp X , xã T L, thấy trong quá có dàn chỉnh nhạc gồm: 01 Miesen hiệu EFX; 01 dàn lọc hiệu DSP-K5;

01 cái Men hiệu PV-7200; 01 đầu thu micro hiệu CA18. K nảy sinh ý định chiếm đoạt, dựng xe trước cửa quán, cửa rào bằng lưới B40 có khóa, dùng tay nâng cửa rào ra khỏi bản lề, cánh cửa rào ngã xuống, K đi vào lấy trộm tài sản nêu trên đem về nhà cất giấu.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 23/KL-HĐĐGTS ngày 14/4/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện C Đ kết luận: dàn chỉnh nhạc trên trị giá 8.292.000đ.

Lần 4: Khoảng 22 giờ ngày 31/01/2020, trên đường đi làm về K điều khiển xe biển số 62L1-426.91 đi ngang qua nhà của anh Lưu Văn Tr tại khu 4, thị trấn C Đ, thấy 04 loa màu đen hiệu JBL, cao 65cm, rộng 45cm để ở ban công trước cửa nhà, nên nảy sinh ý định chiếm đoạt đem về sử dụng. K dựng xe trước cửa nhà, lợi dụng nhà không có cửa rào, K đi vào lấy 01 loa để lên yên xe chở về nhà, tiếp tục quay trở lại 03 lần, lấy 03 loa như trên chở về nhà.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 29/KL-HĐĐGTS ngày 23/4/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện C Đ kết luận: 04 loa trên trị giá 8.840.000đ.

Lần 5: Khoảng 24 giờ 00 phút ngày 10/3/2020, K điều khiển xe biển số 62L1 - 426.91 đi làm về nhà. Trên đường về đến khu vực cầu Chợ Trạm, K dừng xe đi vệ sinh, thấy trước cửa tiệm sửa xe (không rõ biển hiệu) có nhiều thanh sắt, K nhặt một thanh sắt tròn dài 0,67m, Ø 10 (loại có ren) để trên ba ga xe, rồi chạy đến cửa hàng điện thoại di động (ĐTDĐ) Gia Dương thuộc Khu 3, thị trấn C Đ với ý định dùng thanh sắt bẻ khóa đột nhập vào cửa hàng vì trước đó K đến cửa hàng để sửa điện thoại và biết được cửa hàng thường khóa ngoài vào ban đêm. Khoảng 00 giờ 30 phút ngày 11/3/2020, K dựng xe trước cửa hàng điện thoại di động Gia Dương, rồi dùng đoạn sắt nhặt được cạy phá, làm khoen cửa hai ổ khóa cửa nhôm bị gãy, rồi mở cửa đột nhập vào cửa hàng. K sử dụng ĐTDĐ hiệu OPPO rọi tìm tài sản, thấy tủ kính trưng bày điện thoại có sẵn chìa khóa, mở ra lục soát phát hiện thấy toàn là vỏ điện thoại nên không lấy, K đi đến chỗ bàn sửa chữa điện thoại lấy một máy tính xách tay màu đen hiệu ASUS cầm trên tay và lấy 02 ĐTDĐ hiệu SAMSUNG A7 và VSMART, cất giấu vào túi quần. Tiếp tục, K đi lên gác, để máy tính xách tay lại bàn sửa điện thoại, thấy một tivi màu đen màn hình phẳng, 21 inch hiệu ASANZO;

một đầu thu kỹ thuật số hiệu FPT Play và chuột điện tử hiệu SAMSUNG đem tất cả đi ra ngoài, khép cửa lại, vứt thanh sắt trước cửa hàng, rồi lên xe chở tài sản vừa lấy về để ở nhà sau. Đến sáng ngày 11/3/2020, Công an huyện C Đ mời K lên làm việc, K khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 33;38/KL-HĐĐGTS ngày 29/4/2020 và ngày 29/5/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện C Đ thì điện thoại di động màu bạc SAMSUNG A7 có giá là 980.000đ; 01 ĐTDĐ màu đen hiệu VSMART giá 2.957.000đ; 01 tivi màu đen 21 inch hiệu ASANZO giá 912.000đ; 01 đầu thu kỹ thuật số hiệu FPT Play và chuột điện tử hiệu SAMSUNG giá 599.000đ; 01 máy vi tính xách tay (laptop) màu đen hiệu ASUS trị giá 1.724.000đ. Tổng trị giá tài sản trộm cắp tại cửa hàng ĐTDĐ Gia Dương là 7.172.000đ.

Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Nguyễn Tuấn K khai nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng đã nêu trên. Bị cáo bị truy cứu về tội “Trộm cắp tài sản” là đúng, không oan sai. Bị cáo không có ý kiến về Kết luận định giá tài sản; Lời khai của những người bị hại và lời khai của những người làm chứng vắng mặt mà Hội đồng xét xử công bố tại phiên tòa. Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra, bị cáo tự nguyện khai báo; không có ai đe dọa, cưỡng ép.

Người bị hại ông Lưu Văn Tr và anh Dương Vĩnh T có lời trình bày tại Cơ quan cảnh sát điều tra và tại phiên tòa: Phù hợp với lời khai nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, phù hợp với diễn biến sự việc bị cáo thực hiện hành vi phạm tội. Các bị hại đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường gì thêm.

Những người bị hại vắng mặt có lời trình bày tại Cơ quan cảnh sát điều tra: phù hợp với lời khai nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, phù hợp với diễn biến sự việc bị cáo thực hiện hành vi phạm tội. Các bị hại đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường gì thêm.

Người có quyền lợi – nghĩa vụ liên quan ông Bùi Văn Lâu, chị Bùi Thị Hồng V trình bày tại tại phiên tòa như diễn biến sự việc đã nêu trên.

Bản Cáo trạng số 22/CT-VKSCĐ ngày 20/7/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện C Đ, tỉnh L truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo Nguyễn Tuấn K đủ yếu tố cấu T tội “Trộm cắp tài sản” và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tuấn K phạm tội “Trộm cắp tài sản”; Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g, khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 50 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Tuấn K từ 02 năm đến 03 năm tù; Đề nghị miễn phạt tiền theo khoản 5 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Về trách nhiệm dân sự: Các bị hại đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường gì thêm nên không đề cập.

Ý kiến của bị cáo về quyết định truy tố của Viện kiểm sát: Bị cáo không có ý kiến tranh luận.

Người bị hại: Anh T xin cho bị cáo hưởng án treo, ông Tr xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Trong lời nói sau cùng: Bị cáo không có ý kiến.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện C Đ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện C Đ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét nội dung vụ án:

[2.1] Trong thời gian từ cuối năm 2019 đến ngày 11/3/2020, Nguyễn Tuấn K lợi dụng sự sơ hở trong quản lý tài sản, lén lút đột nhập vào nhà của người khác trên địa bàn huyện C Đ để thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của bà Nguyễn Thị H trị giá 7.581.000đ; anh Nguyễn Hoàng L trị giá 9.137.000đ; ông Nguyễn Đ trị giá 8.292.000đ; ông Lưu Văn Tr trị giá 8.840.000đ; anh Dương Vĩnh T trị giá 7.172.000đ. Tổng tài sản mà bị cáo K chiếm đoạt trị giá 41.022.000đ.

Hành vi của bị cáo đã cấu T tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình Sự, sửa đổi bổ sung năm 2017. Hội đồng xét xử xét thấy truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện C Đ, tỉnh L đối với bị cáo là có căn cứ. Chấp nhận đề nghị của Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa, tuyên bố bị cáo Nguyễn Tuấn K phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự quy định:

1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

[2.2] Xét tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo có 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là phạm tội 02 lần trở lên quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

[2.3] Xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thể hiện thái độ T khẩn khai báo, ăn năn hối cải và tự thú đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm r, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Ngoài ra bị cáo phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; chưa có tiền án, tiền sự; người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Vì vậy, cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình so với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

[2.4] Xét hình phạt đối với bị cáo:

Về hình phạt chính: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến tài sản của người bị hại; tác động xấu đến nếp sống văn minh lành mạnh; gây mất an ninh trật tự tại địa phương. Bị cáo là một thanh niên có sức khỏe, đáng lẽ bị cáo chăm chỉ lao động để phục vụ nhu cầu bản thân, chăm lo cho gia đình, góp phần ổn định xã hội, gìn giữ an ninh trật tự chung. Nhưng bị cáo lại thực hiện những hành vi mà pháp luật nghiêm cấm, trái với các chuẩn mực đạo đức xã hội. Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm mới đủ sức răn đe phòng ngừa chung, đảm bảo tính nghiêm minh công bằng của pháp luật; đồng thời giáo dục bị cáo T người có ích cho gia đình và xã hội. Với tính chất hành vi, khả năng nhận thức của bị cáo, mức độ hậu quả mà bị cáo gây ra, Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo như lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục.

[2.5] Xét hình phạt bổ sung: Bị cáo có thu nhập thấp, có hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn nên miễn phạt tiền theo quy định tại khoản 5 các Điều 173 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo như lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

[3] Xét trách nhiệm dân sự: Các bị hại đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường gì thêm nên không xét.

[4] Về vật chứng: 01 đoạn sắt tròn dài 0,67m, Ø 10 (loại có ren) bị cáo dùng vào việc phạm tội nên chấp nhận đề nghị của viện kiểm sát: tịch thu tiêu hủy. Vật chứng hiện Chi cục Thi hành án huyện C Đ đang tạm giữ theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 21/7/2020.

[5] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Tuấn K phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[6] Đối với Bùi Thị Hồng V có giúp đỡ khiêng thùng loa để lên xe vào ngày 22/12/2019, nhưng V không biết đây là tài sản trộm cắp vì K nói mua của một người bạn bán lại với giá rẻ, nên Cơ quan CSĐT Công an huyện C Đ không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với V, là phù hợp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 173 điểm r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 50 của Bộ luật Hình sự;

Căn cứ vào Điều 135; Điều 106, khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 332; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng Hình sự;

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Tuấn K, phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Xử phạt bị cáo Nguyễn Tuấn K 01 năm 10 tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày đi chấp hành án.

Miễn phạt tiền cho bị cáo Nguyễn Tuấn K theo quy định tại khoản 5 điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 đoạn sắt tròn dài 0,67m, Ø 10 (loại có ren). Vật chứng hiện Chi cục Thi hành án huyện C Đ đang tạm giữ theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 21/7/2020.

Về án phí: Bị cáo Nguyễn Tuấn K phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm sung công quỹ Nhà nước.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại văng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được Tòa án niêm yết bản án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

191
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 24/2020/HS-ST ngày 14/08/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:24/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cần Đước - Long An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về